Lễ hội mùa xuân của người Cơ Tu
02:35 11/03/2013 Lượt xem: 1960 In bài viếtNgười Cơ Tu (còn gọi là Ca Tu, Gạo, Hạ, Phương, Ca-tang) thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, cư trú tại miền núi các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế, dân số hiện nay vào khoảng trên 50.000 người. Trong bức tranh văn hóa đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Cơ Tu chiếm một mảng màu sắc khá đặc sắc. Dân tộc Cơ Tu là một trong số ít dân tộc thiểu số ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên còn bảo lưu được các giá trị nguyên gốc của văn hóa dân tộc truyền thống: Nghề thủ công; nhà Gươl; nghệ thuật diễn xướng dân gian nói lý, hát lý; món ăn dân gian và rất nhiều hình thức lễ hội khác nhau liên quan đến chu kì canh tác nương rẫy, lễ nghi vòng đời người, lễ hội cộng đồng… Trong đó, phải kể đến hội tổ chức vào mùa xuân với những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa người Cơ Tu.
Lễ hội ăn mừng lúa mới của người Cơ Tu là lễ hội
truyền thống lâu đời nhất của đồng bào. Vào mùa xuân, hầu khắp bản làng của đồng
bào các dân tộc thiểu số sinh sống dưới tán rừng Trung Trường Sơn thuộc các
huyện miền núi cao Đông Giang, Tây Giang, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam đều tổ chức
lễ hội này. Cũng tương tự như ngày tết cổ truyền của người miền xuôi, đối với
đồng bào miền núi tính thời gian theo mùa rẫy, mỗi năm là một mùa rẫy, khi vừa
thu hoạch xong, làng mở lễ hội ăn mừng, đồng thời cầu mong điều may mắn trong
màu lứa mới (năm mới). Lễ hội mừng lúa mới là dịp để mọi người trong làng giao
lưu, gặp gỡ với nhau, không khí trong làng vì thế luôn rộn ràng, náo nức.
Đầu tiên là công tác chuẩn bị cho lễ hội. Các nghệ nhân thử lại cồng, chiêng
cùng các loại nhạc cụ để đảm bảo đúng âm, đúng điệu. Người có uy tín trong làng
được cử đi mời khách tham dự lễ hội của làng mình. Nam thanh niên lo quét dọn
nhà cửa, đắp sửa lại đường đi, sân làng, sắp xếp, trang trí nhà Gươl thật khang
trang để đón khách quý. Nhà Gươl (nhà làng truyền thống) của người Cơ Tu được
xem là nơi tôn nghiêm, là linh hồn của cả làng, có vai trò rất lớn trong đời
sống của đồng bào. Chuẩn bị lễ hội, Người Cơ Tu sắp xếp, chỉnh lại các hoa văn,
họa tiết và các con vật trang trí trong nhà Gươl. Bên các vách nhà Gươl hay
những lối đối diện đều được trang trí những tấm dồ, tấm tút đẹp nhất như báo với
thần linh, ông bà, tổ tiên biết tấm lòng thành của mình cầu mong cho buôn làng
Cơ Tu luôn trường tồn… Những dụng cụ sản xuất được đưa vào Gươl để “báo cáo” với
thần linh, giàng về kết quả sản xuất suốt vụ mùa vừa qua. Các mẹ, các chị chuẩn
bị trang phục truyền thống, các loại gùi để sớm mai lên rẫy tuốt những gùi lúa
chín vàng về cho làng. Mọi người trong làng ai ai cũng hăng hái góp sức để có
được một lễ mừng lúa mới thành công. Lễ vật hiến tế quan trọng nhất của lễ hội
là một con trâu to béo được dắt đến, buộc vào cột nêu bằng sợi dây mây đan kết
bền chắc. Cột nêu X’nur dùng để cột con trâu đã được trang trí hoa văn với 3 màu
chủ đạo là đen, trắng, đỏ thể hiện tính thẩm mĩ và nghệ thuật điêu khắc truyền
thống người Cơ Tu.
Vào lễ, mở đầu là lễ cầu an. Bài cầu an có đoạn: “Lạy trời cao, lạy đất rộng,
lạy núi rừng, lạy suối sông. Lạy linh hồn ông, lạy linh hồn bà. Hôm nay đây từ
trẻ đến già, xin dâng lễ thần linh. Cầu xin thần linh cho dân làng ấm no, sung
sướng…”. Khi tiếng cồng chiêng vang lên rộn rã cũng là lúc dân làng nhịp nhàng
tham gia điệu múa Tung tung – Ya yá, đây là một hình thức kết hợp múa giữa nam
và nữ. Dẫn đầu đoàn múa là các già làng, người thổi tù và, một số người đánh
cồng chiêng, đánh trống; đàn ông hùng dũng trong điệu múa Tung tung với vũ khí
trên tay như gươm, giáo và khiên mây, mô phỏng các động tác chiến đấu và đi săn,
thể hiện tinh thần thượng võ của họ; phụ nữ nhẹ nhàng trong điệu Ya yá với đôi
tay đưa ngang vai, cẳng tay gập vuông góc lên phía trên, bàn tay xòe rộng như
chống đỡ bầu trời, thể hiện sự lao động bền bỉ và đấu tranh sinh tồn trước thiên
nhiên. Vũ điệu càng lúc càng dồn dập hơn cùng với những tiếng hú dài hùng tráng.
Đó là lúc những già làng và trai làng cầm dụ (giáo) vừa nhảy múa vừa đâm vào con
trâu trong tiếng reo hò của dân làng. Sau khi trâu chết, già làng cắt một miếng
đuôi trâu ném lên chiếc phễu trên cột nêu, xin Giàng và thần linh tiếp nhận lễ
vật của làng. Sọ trâu được mang vào và treo trên cột chính của ngôi nhà chung.
Thịt trâu được xẻ ra, phần dành cho già làng tiếp khách quý ngay tại ngôi nhà
chung, còn lại chia đều cho cả làng. Rượu cần, xôi nếp, thịt lợn, gà, trái cây…
được mang ra, mọi người quây quần ăn uống, tâm tình, múa hát… Cả làng vào hội.
Đến với lễ hội mừng lúa mới của người Cơ Tu, mọi người sẽ được nhìn thấy những
bộ trang phục khá đặc sắc được người Cơ Tu tự dệt nên và mặc trong suốt lễ hội.
Màu chủ đạo của trang phục người Cơ Tu là màu chàm đen, đây cũng là màu nền của
trang phục, những hoa văn trên nền vải hoa như: hoa văn bằng cườm hình hoa Abl]m
(hoa tình yêu), hoa văn bằng cườm hình lá Atút (chiếc hình chong chóng), hoa văn
bằng cườm hình đàn ông, thiếu nữ Cơ Tu múa Tung tung ya yá, lá trầu, dây buộc
nhà Gươl, hoa văn hình hoa rừng trang sức… rất đa dạng. Trang phục lễ hội của
người Cơ Tu nói chung đơn giản, không cầu kì về màu sắc. Dùng trong lễ hội không
bao giờ thiếu các món ăn truyền thống đặc sản của người Cơ Tu như rượu Ta Val (lấy
nước từ buồng cây đoác cho lên men với một loại vỏ cay); bánh cuốt (người CƠ Tu
gọi bánh này là A vị cuốt, bánh đót hoặc bánh sừng trâu… Gọi là bánh đót bởi nó
được gói bằng đót rừng, còn bánh sừng vì nhìn xa, hình dạng của bánh giống cái
sừng của con trâu). Đồng bào Cơ Tu thường mời khách ăn bánh cuốt kèm cơm lam.
Lễ hội mừng lúa mới vào dịp mùa xuân là lễ hội mang tính cộng đồng rất cao và là
lễ hội quan trọng mang đậm yếu tố tâm linh của đồng bào Cơ Tu. Đây là dịp để họ
ăn mừng những hạt lúa mới đầu tiên trong vụ thu hoạch, tạ ơn thần linh về một
mùa vụ trong năm no đủ, đồng thời cầu an cho linh hồn ông bà, tổ tiên người Cơ
Tu bao đời. Tuy nhiên, lễ mừng lúa mới hiện nay của người Cơ Tu không phải được
tổ chức thường xuyên hàng năm thành lễ hội của làng. Tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế của mỗi gia đình mà lễ ăn mừng lúa mới lớn hay nhỏ. Thường gia đình
nghèo thì có những con heo, gà vịt… giàu thì đôi khi có cả trâu, heo, gà… Tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi làng mà lễ ăn mừng lúa mới được họ tổ chức
như một lễ nhỏ trong một số nhà. Gần đây, được sự quan tâm của chính quyền địa
phương, lễ hội được phục dựng ở một số làng bản người Cơ Tu ở Quảng Nam. Cuối
tháng 10/2011, lễ hội này còn được phục dựng ngay tại khuôn viên trường Phổ
thông Dân tộc nội trú Quảng Nam, tạo nên không khí vui vẻ, náo nức của con em
người Cơ Tu. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản và lâu dài chính là tạo mọi điều kiện cả
vật chất lẫn tinh thần để làng Cơ Tu tự tổ chức thường xuyên lễ hội này. Nó phải
được xuất phát từ chính tâm linh và niềm tin của họ, nếu không, lễ hội sẽ chỉ
còn là hình thức, mai một, không còn giữ vững được nét bản sắc riêng, bị pha
trộn, thậm chí bị thay thế bằng các giá trị không cùng nguồn gốc và dần biến mất
trong đời sống cộng đồng.
Tương tự lễ hội, các giá trị văn hóa khác của dân tộc Cơ Tu cũng là những giá
trị cần giữ gìn trong cuộc sống đương đại. Trước sự tác động của các yếu tố xã
hội,sự ra đời, du nhập các giá trị văn hóa mới cùng với xu thế hội nhập và phát
triển đã đưa tới nhiều biến động trong đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số
nói chung và văn hóa Cơ Tu nói riêng. Hơn lúc nào hết, văn hóa các dân tộc thiểu
số cần được quan tâm nếu muốn lưu giữ bản sắc đã dạng trong nền văn hóa Việt Nam
thống nhất. 8/2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt “Đề án bảo tồn,
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” và Bộ Văn hóa-Thể
thao và Du lịch cũng đã công bố việc triển khai đề án này với số kinh phí là
1.512 tỉ đồng. Theo đó ngày 24/11/2011, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Đắc Nông, Ủy
ban nhân dân tỉnh Đắc Nông phối hợp với Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã tổ
chức hội thảo triển khai đề án “Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số Việt Nam 2011-2020 khu vực miền Trung - Tây Nguyên”, xác định trọng tâm,
trọng điểm những nền văn hóa các dân tộc thiểu số để bảo tồn, phát triển hiệu
quả.
Như vậy, vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số đang đặt ra
hết sức cấp bách hiện nay. Nền văn hóa truyền thống lầu đời của dân tộc thiểu số
Cơ Tu với nhiều giá trị đặc sắc cũng cần bảo lưu, giữ gìn và phát triển trong
bối cảnh mới. Thiết nghĩ, một số vấn đề cần thực hiện trước mắt như sau:
Nâng cao nhận thức của chính người dân Cơ Tu về vấn đề bảo tồn và phát triển văn
hóa của mình. Một thực trạng hiện nay là vai trò yếu tố cộng đồng trong đời sống
của mỗi cá nhân cũng như trong cộng đồng người Cơ tu đang giảm dần, nhu cầu về
sự cố kết để chống chọi với những thách thức trong cuộc sống không còn trở nên
thiết yếu. Vấn đề bản sắc đối với chính người Cơ Tu cũng đang mờ nhạt dần đi.
Lớp già làng mất đi để lại một lỗ hổng lớn trong việc truyền bá các yếu tố
truyền thống từ bao đời để lại. Thanh niên Cơ Tu không còn mấy người biết những
bài cúng trong các lễ hội, biết nói lý, hát lý, điêu khắc gỗ… Cần giáo dục cho
đồng bào hiểu được tầm quan trọng của các giá trị văn hóa, nhất là với lớp trẻ,
bởi đây sẽ là lực lượng kế cận có vai trò quyết định trong vấn đề bảo tồn văn
hóa dân tộc mình. Trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Cơ tu, cần
xác định người dân Cơ Tu là chủ thể văn hóa trung tâm, phát huy tối đa năng lực
của những người có uy tín như già làng, trưởng bản, các nghệ nhân người Cơ Tu.
Vấn đề nhận thức được chính giá trị văn hóa của dân tộc mình sẽ là yếu tố đầu
tiên, cơ bản trong bài toán giữ gìn bản sắc. Nếu không mọi biện pháp khác sẽ trở
nên cưỡng ép, bất đắc dĩ.
Khôi phục nhà Gươl nhưng tuyệt đối không hiện đại hóa nhà Gươl. Theo quan niệm
của người Cơ Tu, nhà Gươl là chốn linh thiêng, là nơi cư ngụ của thần linh, ông
bà, tổ tiên. Nhà Gươl phải được lập nên bằng công sức của mọi người trong làng.
Gươl “linh hồn làng”-một biểu tượng văn hóa cao nhất của cộng đồng. Từ nhiều năm
qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhà Gươl của người Cơ Tu từng bước
được khôi phục. Hiện nay trong 197 buôn, làng thuộc các huyện: Nam Giang, Đông
Giang, Tây Giang (nơi có số đông đồng bào Cơ Tu sinh sống), thì tại huyện Tây
Giang có hơn 60 buôn làng, huyện Đông Giang và Nam Giang có hơn 70 buôn làng đã
có Gươl. Nhưng hầu hết các Gươl này đã không còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc
truyền thống mà đã bị pha trộn với kiểu kiến trúc mới có tính hiện đại, nhiều
địa phương tự ai nấy làm, dần dần nhà Gươl trở thành hội trường. Nhà Gươl là nơi
bảo tồn văn hóa Cơ Tu hiệu quả nhất nên cần xem lại cách làm của chúng ta. Phải
có sự tham gia chủ yếu của người Cơ Tu trong việc khôi phục nhà Gươl hiện nay.
Ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc Cơ Tu làm việc tại chỗ, làm việc ở các
thiết chế văn hóa cơ sở. Hỗ trợ truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ
thuật truyền thống: các nghề dệt thổ cẩm, đan lát, làm gốm, nghề rèn; nghệ thuật
điêu khắc, chạm trổ trong nhà sàn, nhà mồ; nghệ thuật diễn xướng dân gian, làn
điệu dân gian Ba Booch, Bhơ nooch; nghệ thuật sử dụng các nhạc cụ như đàn gơ rơ
nư na, ahen, a luốt, bham, múa tung tung ya yá… đầu tư kinh phí để bảo tồn và
phát huy văn hóa vật thể truyền thống tiêu biểu của đồng bào (như Gươl, nhà sàn,
nhà mồ, các nhạc cụ dân tộc, di tích lịch sử, văn hóa…); khôi phục và tổ chức
thường xuyên đúng chu kì các lễ hội quan trọng của người Cơ Tu. Lễ hội biến mất
thì các giá trị văn hóa khác cũng biến mất theo. Bởi các lễ hội của người Cơ Tu
có thể xem như bảo tàng sống dung chứa khá đầy đủ các giá trị văn hóa dân tộc Cơ
Tu. Nhà nước cần ưu tiên nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành văn
hóa cơ sở ở các huyện có đông đồng bào dân tộc Cơ Tu sinh sống. Phát động rộng
rãi phong trào người Cơ Tu mặc trang phục, học và nói tiếng Cơ Tu…
Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”
tập trung bảo tồn khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một
văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người, tạo điều kiện phát huy văn hóa
các dân tộc thiểu số có số dân đông. Theo đó, vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa
dân tộc Cơ Tu chắc chắc sắp tới sẽ được đầu tư, quan tâm đúng mức, góp thêm
tiếng nói cùng tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
ThS. Nguyễn Thị Triều