Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương tâm thức nguồn cội của người Việt
10:24 11/04/2013 Lượt xem: 608 In bài viếtTrong tâm thức của những người con dân đất Việt, từ bao đời nay, Hùng Vương là vị vua Thủy tổ dựng nước, là tổ tiên của cộng đồng người Việt. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được tôn là tín ngưỡng phổ quát trong hệ chuẩn văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không những có mặt ở hầu khắp các địa phương trên toàn cõi Việt Nam, mà còn có mặt trên toàn thế giới, ở những nơi có cộng đồng dân cư người Việt sinh sống và tụ cư.
Tín ngưỡng " Tộc bái" của ngườ Việt
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một tín ngưỡng thuộc dòng bản địa có sự giao
thoa, hòa đồng của văn hóa Phật giáo và Nho giáo. Thờ cúng Hùng Vương gắn liền
với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Thờ cúng tổ tiên nghĩa là lập bàn thờ tại gia hoặc tại nhà thờ họ; cúng bái
trong ngày tết hoặc ngày sóc, ngày vọng. Thông qua việc thờ cúng nhằm xác lập
“mối liên hệ giữa người sống với người chết”, giữa con người hiện tại với những
người ở thế giới tâm linh. Hầu khắp các gia đình người Việt đều lập bàn thờ cúng
tổ tiên với quan niệm người chết chưa phải là đã hết, mà chết là về thế giới bên
kia, nơi chín suối, ở cõi Tây phương cực lạc, vẫn thường xuyên đi về, thăm nom,
phù hộ cho con cháu.
Thờ cúng tổ tiên là công việc đặc biệt hệ trọng của người Việt Nam. Thông qua
thờ cúng tổ tiên, người Việt gửi lòng mình vào sự tri ân công đức tổ tiên, biết
ơn lớp tiền nhân theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Người Việt gắn thờ cúng tổ
tiên với việc thờ cúng các Vua Hùng - những người đã có công mở nước, sinh dân,
hun đúc nghĩa “đồng bào”.
Hùng Vương là vị Thánh thủy tổ của người Việt. Thờ cúng Hùng Vương không phân
biệt huyết thống, dòng họ, không phân chia địa lý, vùng miền, quốc gia, dân tộc.
Chỉ cần là người Việt Nam hay các dân tộc khác có cùng nguồn gốc, cùng bản sắc
văn hóa cội nguồn của cư dân nông nghiệp... đều công nhận Vua Hùng là tổ tiên
của dân tộc mình, dòng tộc mình, chi họ mình.
Vua Hùng là tổ tiên chung của cộng đồng quốc gia, dân tộc và ngày mồng 10 tháng
3 Âm lịch hằng năm là ngày Giỗ tổ chung của đồng bào Việt Nam trên khắp mọi miền
đất nước và ở cả nước ngoài, nơi có Kiều bào Việt Nam sinh sống. Đến năm 2005,
theo kiểm kê bước đầu của Cục Văn hóa cơ sở - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
cả nước có 1.417 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan thời Hùng
Vương dựng nước. Người V iệt lập làng ở đâu thì lập đền thờ Vua Hùng ở đấy với
quan niệm con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó.
Vì vậy, thờ cúng Hùng Vương là tín ngưỡng “tộc bái” của một dân tộc có cùng
nguồn gốc. Đó thực sự là một tín ngưỡng bản địa có sức sống mãnh liệt, có sức
lan tỏa rộng, sâu, lâu bền trong cộng đồng người Việt.
Tín ngưỡng chính thống của dân tộc
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được hòa trộn với tín ngưỡng tâm linh và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian, thờ cúng Hùng Vương
đã trở thành lễ tục chính thống, được Nhà nước Việt Nam qua các thời đại công
nhận và trực tiếp tham gia thực thi tín ngưỡng.
Cộng đồng dân tộc Việt Nam có truyền thống tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày
mồng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm. Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày giỗ quan trọng nhất
của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đây không chỉ là ngày giỗ của một gia
tộc, một dòng họ, một làng, một xã, một vùng, một địa phương mà là ngày giỗ cụ
Tổ chung của cả nước.
Theo dòng lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dù được tổ chức dưới hình thức
sơ khai nhất cũng đã cách ngày nay trên 2.000 năm có lẻ. Bắt đầu từ việc An
Dương Vương - Thục Phán dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để thề: “Nguyện có
đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn, lưu ở miếu Tổ Hùng
Vương; nguyện đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và giữ gìn giang sơn gấm vóc
mà Hùng Vương trao lại...”.
Tới thời Hồng Đức Hậu Lê, khi vua Lê Thánh Tông khẳng định: Nho giáo là hệ tư
tưởng rường cột của quốc gia Đại Việt thì tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được
chính thức hóa bằng pháp luật. Vua sai Hàn lâm viện - Trực Học sỹ Nguyễn Cố soạn
“Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” (Hùng đồ thập bát diệp
Thánh vương Ngọc phả cổ truyền). Từ đó, Vua Hùng đã trở thành bậc đế vương muôn
đời của nước Việt, có tông phả giữa thế gian, trời, đất. Cũng chính nhờ tông phả
đó mà triều đình Hậu Lê mới có đủ điều kiện làm lễ “tế giao”như các Vua phương
Bắc.
Năm 1479, trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sỹ Liên đã đưa họ Hồng
Bàng vào chính sử Việt Nam. Đó là bước phát triển vượt bậc trong ý thức hệ và tư
duy của Nho giáo Việt Nam. Từ đây về sau Vua Hùng được tôn là Thánh Tổ và được
chính quyền trung ương công nhận; nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước đã xây
dựng đền thờ Vua Hùng và các nhân vật lịch sử thời Hùng Vương dựng nước. Đền
Hùng - Phú Thọ được lưu giữ Ngọc phả Hùng Vương và trở thành di tích quốc gia
đặc biệt, dân xã Hy Cương (Phú Thọ) được ban phong là dân “tạo lệ” thừa hưởng
hương hỏa ngàn thu.
Năm 1917, triều đình nhà Nguyễn giao cho Bộ Lễ chính thức định ngày Quốc lễ -
Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm.
Năm 1946, cụ Hồ Chí Minh- Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ra sắc lệnh đưa ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 Âm lịch hằng năm là ngày lễ chính
thức của dân tộc và cho phép viên chức nhà nước được nghỉ lễ, hưởng nguyên lương.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng - Phó Chủ tịch nước đã về dự Giỗ Tổ, dâng một thanh gươm và
tấm bản đồ Tổ quốc để khẳng định quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc
Việt Nam.
Năm 1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về tổ chức các ngày lễ lớn trong
năm, trong đó có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Năm 1999, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 11-NQ/TW
(ngày 28/7/1999) về việc tổ chức các ngày lễ lớn - trong đó có ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương.
Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2001/NĐ-CP (ngày 6/11/2001) về nghi
lễ nhà nước - trong đó có quy định chi tiết nghi lễ tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương.
Năm 2004, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 33 - NQ/TW
(ngày 9/2/2004) về việc tổ chức các ngày lễ lớn trong 2 năm 2004 - 2005; trong
đó có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung điều 73 của Bộ luật Lao động cho phép người lao động được nghỉ làm
việc hưởng nguyên lương trong ngày lễ Giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm.
Có thể nói, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đặc biệt từ thế kỷ XV đến nay, tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có nguồn cội từ tín ngưỡng dân gian đã trở thành tín
ngưỡng chính thống của người Việt, được Nhà nước chính thức công nhận.
Tầm thức nguồn cội của người Việt
Thờ cúng tổ tiên là một phong tục lâu đời của người Việt. Trong tiến trình lịch
sử dân tộc, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn được đặt ở vị trí tâm điểm cho sự
cố kết cộng đồng, đoàn kết và toàn vẹn của gia đình, dòng họ và cả dân tộc.
Người Việt Nam thờ tổ tiên trong gia đình, thờ tổ họ trong dòng họ, thờ thần
thành hoàng ở làng, thờ tổ của nước ở Đền Hùng. Giỗ tổ Hùng Vương là biểu tượng
tinh thần để quy tụ lòng người, quy tụ sự đoàn kết toàn dân tộc. Đó là biểu
tượng văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng; đồng thời trở thành nhu
cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Trong các luận giải nghiên cứu về tín ngưỡng của mình, cụ Đào Duy Anh viết:
“Việc tế tự tổ tiên không phải chỉ cốt cho linh hồn tổ tiên khỏi khổ mà còn có ý
nghĩa sâu xa hơn nữa là nhớ ơn tổ tiên và lưu truyền nòi giống mãi về sau; cho
nên ta có thể cho rằng tế tự tổ tiên là lấy duy trì chủng tộc làm mục đích”.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được Nhà nước tôn vinh, nhằm mục đích cố kết cộng
đồng, thông qua các sinh hoạt văn hóa để giáo dục truyền thống lịch sử và ý thức
đoàn kết dân tộc thành một khối thống nhất vì sự tồn vong của đất nước. Ý thức
ấy được thấm vào máu thịt từng con người thông qua hoạt động văn hóa tâm linh.
Biểu tượng Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là điểm hội tụ của tinh
thần đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Khi tâm thức nguồn cội của người Việt được
nâng cao thì tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được lan tỏa và trở thành niềm tin
thiêng liêng của mỗi người - niềm tin vào tổ tiên và sức mạnh thiêng liêng tiềm
ẩn của các Vua Hùng.
Tên gọi Hùng Vương đã đi vào thế giới tiềm thức của mỗi người dân đất Việt. Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành hiện tượng xã hội, là nội dung tinh thần
quan trọng gắn với đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Biểu tượng Hùng Vương
được khẳng định là ông Tổ chung và duy nhất của đất nước Việt Nam, con người
Việt Nam. Trong tâm thức nguồn cội của người Việt, Vua Hùng là ông Vua mở nước,
sinh dân, tạo ý nghĩa đồng bào. Vua Hùng đã thực sự thấm sâu vào ý thức tự tôn
dân tộc của người Việt.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã vượt qua mối quan hệ huyết thống, biên giới địa
lý, tôn giáo, dân tộc và ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã vượt ra khỏi tín ngưỡng dân
gian để trở thành Quốc tế. Hùng Vương đã trở thành Quốc Thánh, là vị thần chung
cho tất cả mọi người đang cùng sống trên đất Việt.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không có biên giới riêng mà là biên giới cộng
đồng. Đó là điều căn bản triết lý để hình thành một quốc gia thống nhất. Ở đó
tất cả mọi người đều có chung một vị Thánh Tổ - Vua Hùng. Trong tâm thức nguồn
cội của người Việt - tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - Giỗ Tổ Hùng Vương là điểm
đồng quy về ý thức cộng đồng - quốc gia - dân tộc.
Phạm Bá Khiêm
Phó Giám đốc Sở VH-TT và DL Phú Thọ