Múa Cơ Tu vũ điệu cuộc sống
09:43 05/04/2013 Lượt xem: 1207 In bài viếtNgười Cơ Tu ở Việt Nam cư trú chủ yếu trên dải Trường Sơn, phía Tây của tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Tổng dân số người Cơ Tu theo thống kê năm 2009 là 61.588 người, trong đó đông nhất tại Quảng Nam với 45.715 người. Về văn hóa dân tộc Cơ Tu, đã có nhiều công trình nghiên cứu, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu về nghệ thuật múa của dân tộc này. Bởi vũ điệu Cơ Tu có những nét đặc sắc và đặc trưng văn hóa đã thu hút sự quan tâm của chúng tôi.
Người Cơ Tu chủ yếu múa hai điệu tơntúng và dadăq, nên khi nhắc đến hai điệu múa này là người dân nơi đây nghĩ ngay đến múa Cơ Tu. Tơntúng là điệu múa của đàn ông; dadăq là điệu múa của phụ nữ. Đây là hai điệu múa tập thể được thể hiện ở tất cả các lễ hội của người Cơ Tu và được múa cùng lúc với nhau. Điệu múa này không có bất kỳ sự phân biệt nào, là người già trẻ, trai gái, người lớn, người nhỏ đều được tham gia. Thậm chí những người khách từ nơi khác đến chơi cũng có thể tham gia. Trang phục, trang sức múa cũng chính là trang phục, trang sức của người tham dự lễ hội - đó là những trang phục đầy hoa văn sặc sỡ và những trang sức đẹp đẽ và quý giá nhất của mình. Vậy nên bất kỳ ai đi tham dự lễ hội đều có thể múa nếu thích. Điều đó cho chúng ta thấy tính cộng đồng, sự đoàn kết, chan hòa của tộc người này rất cao.
Động tác của hai điệu múa tơntúng và dadăq có đặc điểm riêng và ấn tượng, “có thể ví như một điệu dân vũ mà cả hình tượng lẫn nhịp điệu là bám đất, dâng trời”. Tức là cả hai điệu múa chân dù di chuyển nhưng đều bám sát đất, hai tay của nữ giơ lên cao như đang dâng lễ vật cho trời. Động tác múa về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở giai điệu, nhịp điệu chậm rãi, tha thiết hay rộn rã, dồn dập mà thôi. Vì vậy, khi mới nhìn thoáng qua, múa Cơ Tu có vẻ khá đơn điệu, trùng lặp, nhưng thật sự, đó chính là sự kết tinh một nghệ thuật múa với nhiều nét đặc trưng văn hóa riêng.
Nhìn tổng thể, múa Cơ Tu tạo thành vòng tròn di chuyển chậm và ngược chiều kim đồng hồ. Nếu là lễ hội ở sân nhà Gươl thì lấy cột đâm trâu làm tâm điểm, nếu là lễ hội ở bên trong nhà Gươl thì cột chính ở giữa nhà làm tâm điểm. Điệu múa Cơ Tu cũng gắn liền với âm nhạc cồng chiêng và trống. Sau khi chiêng, trống nổi lên sẽ tạo nhịp điệu, giai điệu để múa. Hàng con gái thường múa trước rồi mới tới hàng con trai nối tiếp theo sau tạo thành vòng tròn. Nếu đông người, một vòng chật thì họ sẽ tách thành hai vòng tròn cùng nhảy múa, nữ múa vòng trong, nam múa vòng ngoài.
Động tác múa tơntúng hùng dũng, dịch chuyển nhịp nhàng theo tiếng trống chiêng nhịp 2/4 với các đạo cụ của người trai làng giữ đất, giữ rừng, đi săn bắn… Đây là điệu múa của những chàng trai tay cầm kiếm, giáo, khiên với dáng dấp khỏe khoắn, dứt khoát. Đàn ông đóng khố không cầu kì, rườm rà, mà đơn giản, lộ thân hình cường tráng của người con trai núi rừng. Những người đàn ông rầm rập nhún nhảy, chân trái bước trước đồng thời nhún xuống, chân phải bước sau chạm vào chân trái thì bật chân trái ra, cứ như vậy dịch chuyển theo vòng tròn về phía tay phải. Đôi chân không được rời khỏi mặt đất, thân người thẳng như cây rừng. Tay trái nắm chắc cây khiên phía trước ngực, tay phải cầm kiếm hoặc giáo, hai tay vung lên hạ xuống mạnh mẽ và hùng dũng theo nhịp. Nếu là tay không thì nắm chắc tay bạn bên cạnh tung đôi tay lên vừa bước vừa hú một cách tự tin, sôi động. Điều đó thể hiện tinh thần thượng võ, sức mạnh của trai làng Cơ Tu, không sợ đương đầu với kẻ thù, với thú dữ hay khó khăn nguy hiểm; và còn thể hiện niềm tin yêu cuộc sống, yêu buôn làng.
Tơntúng còn là điệu múa diễn tả cảnh đi săn thú, là điệu múa mừng chiến thắng. Những buổi đi săn, lên rừng, xuống rẫy bắt được con thú mang về làng là nổi chiêng nổi trống lên để ăn mừng, để nhún nhảy. Con trai Cơ Tu tuổi mới lớn lại tiếp bước truyền thống những thế hệ cha ông đi trước, quyết tâm gìn giữ và bảo vệ buôn làng, rừng núi. Và họ cũng tiếp tục tập vũ điệu của cha ông, vũ điệu thể hiện cốt cách của những chàng trai Cơ Tu.
Điệu múa dadăq của thiếu nữ Cơ Tu rất uyển chuyển, nhịp nhàng và độc đáo. Toàn vòng tròn di chuyển chậm, từ trái sang phải, còn từng người thì chân nhún nhẹ nhàng tự quay vòng tròn quanh mình từ phải sang trái. Động tác múa với thân hình đứng thẳng, đôi chân di chuyển sát mặt đất theo nhịp trống, hai tay đưa lên ngang vai, đôi cánh tay vươn lên trời song song với thân mình, đôi bàn tay xòe ra hơi ngửa về phía sau. Người phụ nữ múa giỏi là đôi bàn chân luôn bám đất dù vẫn di chuyển nhịp nhàng và nhún nhảy theo vòng tròn. Điệu múa dadăq làm say mê lòng người còn bởi những bộ trang phục, trang sức mang đặc trưng của dân tộc mình. Thiếu nữ Cơ Tu mặc những bộ váy dệt bằng thổ cẩm với nhiều hoa văn cầu kì, sặc sỡ, vai trần, cổ đeo chuỗi vòng cườm trước ngực đẹp đẽ và quý giá tạo nên vẻ đẹp rất đặc sắc. Múa dadăq “thể hiện nét đẹp của người con gái miền sơn cước, yêu thiên nhiên và yêu cuộc sống” .
Vũ điệu của phụ nữ Cơ Tu làm cho chúng ta liên tưởng đến hình tượng người phụ nữ đang dâng hiến lễ vật cho Giàng, đang cầu xin Giàng. Chính vì vậy, có nhiều ý kiến cho đây là điệu múa thiêng, là “hương đất dâng trời”, hay như hình tượng đôi sừng trên đầu trâu - biểu tượng hiến tế của người Cơ Tu… Quả thực là thế, múa Cơ Tu không chỉ gắn với phần hội mà còn thể hiện cả nội dung của phần lễ trong các lễ hội.
Người ta cũng đã tìm được nhiều hình vẽ tương tự động tác múa dadăq trên vách đá các hang động của người tiền sử ở Thái Lan, Trung Quốc... Vì vậy, theo các nhà nghiên cứu, điệu múa dadăq “bắt nguồn từ những động tác dâng lễ vật từ thời xa xưa. Lễ vật được nâng trên tay là xôi, thịt, hoa, trái... Trên cơ sở hiện thực ấy, động tác dâng lễ vật theo quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, được nhân dân sáng tạo, cách điệu hóa lên thành nghệ thuật có trình độ thẩm mỹ cao. Với nét đặc trưng của vũ điệu là hai tay đưa lên trên trời nên các nhà nghiên cứu gọi là vũ điệu dâng trời”.
Chẳng hạn, trong lễ đâm trâu (những lễ hội lớn của người Cơ Tu như lễ hội được mùa, lễ hội mừng lúa mới, lễ hội mừng nhà Gươl… thường có lễ đâm trâu), múa được duy trì thường xuyên trong buổi lễ. Trước lúc đâm trâu, khi già làng - người già có uy tín trong cộng đồng - tiến hành các nghi lễ, âm vang cồng chiêng vẫn hòa cùng điệu múa với giai điệu chậm rãi, tha thiết như vừa thương yêu con trâu phải hy sinh làm vật hiến tế, vừa thể hiện sự tôn kính các đấng thần linh. Khi tiến hành việc đâm trâu thì cồng chiêng có tiết tấu rộn rã, dồn dập hơn, vì thế điệu múa cũng nhanh, mạnh mẽ và dồn dập hơn như thể hiện cao trào của cảm xúc dâng hiến. Sau khi con trâu đã chết thì nhịp điệu chuyển sang tiết tấu trầm, chậm hơn nhằm tiễn biệt linh hồn trâu về với Giàng và gửi gắm những ước nguyện tốt đẹp cho cuộc sống của dân làng.
Người Cơ Tu cư trú ở vùng miền núi khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, trong cuộc sống mưu sinh của họ còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Tâm linh của họ tin rằng thần đất, thần sông, thần suối cho họ cái ăn từ đất rừng, đất rẫy, từ con nước… Giàng cho họ suy nghĩ, niềm tin để vượt qua khó khăn, sống gần gũi với gió núi, với cây rừng. Vì vậy, qua rất nhiều thế hệ, họ đã hun đúc, sáng tạo nên một điệu dân vũ mang đậm hơi thở cuộc sống và tâm linh. Trong vũ điệu ấy chúng ta thấy có cảnh những trai làng khỏe mạnh tay cầm giáo mác giữ đất, giữ rừng, đi săn bắn, có cảnh hiến tế với hàng đoàn người phụ nữ tay dâng lễ vật lên Giàng, thần đất, thần sông để cầu mưa, cầu ban cho cái ăn, cái mặc… Điệu múa ấy thể hiện niềm tin, mong ước cuộc sống ấm no, thanh bình và hạnh phúc của cư dân. Điệu múa như là sợi dây kết nối con người với ông bà, tổ tiên, với các đấng thần linh, và có những nét độc đáo của riêng của tộc người mình.
Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống, điều này được phản ánh và thể hiện rõ nét trong nghệ thuật múa của người Cơ Tu. Sau những ngày lao động vất vả, những chuyến đi săn cực nhọc, họ lại quây quần bên bếp lửa bập bùng ăn mừng thành quả lao động. Tiếng trống, tiếng chiêng đan xen tiếng reo hò như mời gọi mọi người tham gia vũ điệu. Trong những ngày tết, lễ hội, ngày vui của bản làng, vũ điệu giúp họ xua tan những mệt nhọc, sầu lo, trở về với tâm trạng thoả mái, yêu đời, yêu làng bản, yêu con nước, hăng hái lao động hơn. Không chỉ thế, vũ điệu tơntúng và dadăq còn là nơi để nam nữ được gần gũi tìm hiểu nhau, trao gửi tình yêu đôi lứa. Khi tham gia vào điệu múa, các chàng trai thể hiện tinh thần thượng võ, dũng cảm, nhanh nhẹn và tài hoa, những người con gái thể hiện sự uyển chuyển, mềm mại, tinh tế của mình. Vũ điệu là chất men làm say lòng người qua bao mùa lễ hội.
Vũ điệu Cơ Tu đã thể hiện được vẻ đẹp của nghệ thuật tạo hình, của âm nhạc, của hình thể, của trang phục…, nó còn giúp ta hiểu được tâm tư, tình cảm và ước mong cuộc sống ấm no, hạnh phúc của họ. Vũ điệu giúp họ thêm gắn bó, yêu thương nhau, bản làng thêm đoàn kết, gần gũi với thiên nhiên và thêm tin yêu cuộc sống. Người Cơ Tu có quyền tự hào về nghệ thuật múa đặc sắc của mình. Điệu múa là sản phẩm tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của họ, nó tiêu biểu cho cội nguồn văn hoá độc đáo của dân tộc Cơ Tu. Vũ điệu này sẽ còn tồn tại mãi với thời gian bởi cộng đồng người Cơ Tu rất yêu thích điệu múa của mình. Những chủ thể của nghệ thuật múa tơntúng và dadăq rất có ý thức lưu giữ và truyền dạy vũ điệu đặc sắc này. Các bé trai, bé gái khi biết chạy, biết nhảy, đã được các mẹ, các chị, các anh dạy cho biết múa. Khi tham gia vào điệu dân vũ của cộng đồng, tất cả họ đều trào dâng lòng tự hào, niềm vui và hạnh phúc vô bờ.
ThS. Vũ Đình Anh