Lễ hội Katê năm nay được tổ chức từ 14/10 đến 17/10
tại thôn Hữu Đức xã Phước Hữu huyện Ninh Phước - Ninh Thuận. Đây là lễ hội đặc
sắc trong hàng chục lễ hội hàng năm của đồng bào Chăm. Là nơi hội tụ những tinh
hoa văn hoá, sinh hoạt, tập tục, tín ngưỡng, kỹ thuật, mỹ thuật, tập quán thông
qua các đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bản thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền
có công với dân với nước, ca ngợi công việc đồng áng, mùa màng, những vần thơ ca
ngợi sự hưng thịnh, sản vật trăm hoa, trăm quả, trăm nghề,…Lễ hội Katê là dịp để
các chàng trai tài, gái sắc, phô diễn trước công chúng những điệu nhảy, bài ca,
điệu kèn mang một phong cách độc đáo, riêng có của dân tộc Chăm, làm lay động
lòng người. Trong âm thanh dìu dặt của kèn Samanai, trong nhịp giật thôi thúc
của trống Ginăng đưa những người dự lễ lên đỉnh cao của sự thăng hoa, hoà vào
điệu múa của các thiếu nữ Chăm bay khắp cõi trời mơ. Lễ hội Katê chính là giây
phút thiêng liêng của người trần thế đánh thức các tháp Chăm cổ kính yên ngủ
dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, toả ra trăm sắc, ngàn hương, góp phần
làm phong phú cho vườn hoa văn hoá đa sắc, đa màu của các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Katê diễn ra theo tình tự các bước đã có truyền thống từ xa xưa, bao gồm
lễ rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y phục cho tượng thần
và sau cùng là đại lễ. Lễ hội tại đền tháp do Ban tế lễ là các chức sắc đạo
Bàlamôn gồm: Thầy cả sư (Pô Dhia) làm chủ lễ, thầy kéo đàn Kanhi - hay còn gọi
là thầy cò ke (Ôn Kadhar), bà bóng (Muk Payâu) dâng lễ và ông từ (Camưnay). Lễ
vật dâng cúng gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 5 mâm cơm cúng có
thịt dê, 1 mâm cơn với muối vừng, 3 ổ bánh gạo và hoa quả.
Lễ rước y trang của nữ thần Pô Nâgar (thần Mẹ xứ sở) diễn ra một ngày trước ngày
hội chính. Y phục của Nữ thần Pô Nâgar do người Raglai (một bộ tộc miền thượng)
cất giữ. Lý do vì sao mà y trang của Nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm lại do
người Raglai giữ hộ thì hiện còn nằm trong các màn sương dày của các truyền
thuyết! Đến ngày hội lễ Katê thì người Chăm làm lễ đón y trang do người Raglai
chuyển lại và để y trang của Nữ thần Mẹ xứ sở vào một ngôi đền gần tháp. Trước
khi rước y trang lên tháp, đoàn người Raglai tập trung đông đủ, ông từ giữ đền
dâng cúng lễ vật, gồm: Trứng, rượu, trầu cau và xin phép thần được rước y trang
về tháp để làm lễ.
Tiếp theo là lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông từ trong coi tháp điều hành.
Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương,.... Trong
không khí trang nghiêm, vị cả sư đọc mấy câu thơ (trong kinh hành lễ): “Chúng
con lấy nước từ sông lớn/ Chúng con đội về tháp tắm thần/ Thần là thần của trời
đất/ Chúng con lấy những tấm khăn đẹp nhất/ Lau mồ hôi trên mình, tay chân của
thần,...”.
Sau đó ông từ cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần Siva trên vòm cửa
chính cuả tháp. Tiếp đó, thầy kéo đàn Kanhi (tương tự đàn nhị của người Việt) và
bà bóng tiến đến trước cửa tháp chính, ngồi bên tượng bò thần Nađin để hát lễ
xin mở cửa tháp: “Hãy xông hương trầm bằng lửa thiêng/ Hương trầm của người trần
dâng lễ/ Hương trầm bay toả ngát không gian/ Chúng con xin mở cửa tháp cúng thần”.
Bà bóng và ông từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm nghi ngút và sự chăm
chú của mọi người.
Tiếp theo là lễ tắm tượng thần, lễ này được diễn ra bên trong tháp. Lễ tắm tượng
thần là một thủ tục linh thiêng, do ông cả sư, thầy cò ke, bà bóng, ông từ và
một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Sau khi đọc các đoạn trong kinh hành lễ,
ông từ cầm lọ nước tắm vẫy lên pho tượng đá, mọi người có mặt cùng tắm cho thần.
Trong khi tắm, những tín đồ nhiệt thành lấy nước trên thân tượng thần bôi lên
đầu, lên thân thể mình để cầu tài lộc, sức khoẻ, may mắn,...
Sau khi tắm cho tượng thần xong là bắt đầu lễ mặc y phục. Thầy cò ke hát một bài
thánh ca, hát đến đâu thì ông từ, bà bóng mặc y phục đến đó. Đầu tiên là mặc váy,
rồi đến áo cho tượng thần.
Đại lễ được tiếp theo khi tượng thần đã mặc trên mình bộ xiêm bào lộng lẫy, các
lẽ vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Chủ trì buổi lễ là vị cả sư, bà bóng
bày lễ vật, thầy kéo đàn Kanhi mời các vị thần cùng về dự lễ. Lần lượt thầy cò
ke hát mời 30 vị thần, mỗi vị thần thầy hát một bài thánh ca để mời. Thầy cả sư
làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ và phù hộ độ trì cho muôn dân.
Kết thúc đại lễ là màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng.
Trong lúc bà bóng đang xuất thần điệu múa thiêng bên trong tháp để kết thúc đại
lễ thì bên ngoài bắt đầu mở hội. Những điệu trống Ginăng, kèn Saranai cùng loạt
vang lên, cầm nhịp cho các cô gái Chăm trong vũ điệu cuồng nhiệt, say sưa, hấp
dẫn, thôi thúc mọi người. Không khí vui nhộn liên tục cho đến khi mặt trời khuất
sau các dãy núi,...
Các lễ hội Katê ở các làng Chăm diễn ra một hoặc có khi là vài ngày sau khi kết
thúc lễ hội ở các tháp. Ở đây, mấy hôm trước ngày hành lễ Katê làng, dân làng đã
quét dọn đền miếu (mỗi làng Chăm thường thờ riêng một vị thần), chuẩn bị sân
khấu, bãi chơi để thi dệt thổ cẩm Chăm, thi đội nước, kéo co,…Những năm gần đây
còn tổ chức cho thanh niên chơi bóng đá, bóng chuyền, mọi nhà đều sắp xếp, trang
hoàng nhà cửa, mua sắm đồ ăn, thức uống...Nếu như lễ hội Katê ở tháp nặng về
phần lễ thì Katê làng lại nghiêng về phần hội.
Trong ngày hội Katê làng, sau khi chuẩn bị xong lễ vật, buổi sáng, mọi người làm
lễ cúng Katê ở Nhà Làng để cầu mong thần phù hộ cho dân làng bình an, khoẻ mạnh
và làm ăn phát đạt. Chủ lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà chủ làng (Pô Paley)
hoặc già làng có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Khi kết thúc buổi lễ
là lúc bắt đầu các trò chơi. Tại làng Mỹ Nghiệp, nơi tập trung hơn 500 thợ dệt
thổ cẩm Chăm lành nghề (thị trấn Phước Dân huyện Ninh Phước, Ninh Thuận) trong
lễ hội Katê hàng năm, ngoài các trò chơi như, múa quạt, kéo co,...đã diễn ra hội
thi dệt thổ cẩm rất sôi nổi.
Khi lễ Katê làng kết thúc thì lễ Katê gia đình mới được bắt đầu. Mỗi gia đình,
tuỳ theo điều kiện của mình mà mua sắm các thứ cho ăn mặc như Tết nguyên đán của
người Kinh vậy. Khi cúng lễ ở mỗi nhà, mọi người trong gia đình phải có mặt đầy
đủ để cầu mong tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh được
rủi ro, gặp nhiều may mắn,... Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu
nhớ ơn công lao sinh thành, giáo dưỡng của ông bà, tổ tiên,... Mọi người sau khi
cúng lễ xong thì hưởng lễ hay đi thăm viếng người thân, bạn bè, chúc tụng nhau.
Trong lúc đến viếng thăm nhau, ngoài những lời chúc tụng về sức khoẻ, hạnh phúc
và công việc, người Chăm hay mời nhau uống rượu, ăn các loại bánh, trái cây,...
Lễ hội Katê là hình thức sinh hoạt lễ hội đặc sắc nhất của đồng bào Chăm, cuốn
hút tất cả mọi thành viên trong thôn làng ở tất cả mọi cấp độ, mọi lứa tuổi,
không một người nào bị lãng quên, mọi người tham gia với khả năng của mình vào
các hoạt động của cộng đồng. Các thiếu nữ Chăm thuộc làu từng động tác, từng
phách, từng nhịp, cách trở, gập quạt, cách uốn, nhún, lượn, xoay, đảo,... từ các
nghệ nhân, những người cao tuổi trong làng để tạo nên sự uyển chuyển, duyên
dáng, nhuần nhuyễn, nhịp nhàng đến khó tin qua các màn múa quạt tập thể làm say
lòng người. Khâm phục hơn nữa khi biết họ là những thiếu nữ Chăm bình thường,
trước ngày hội Katê chỉ tập họp ôn luyện cùng nhau vài buổi để ra trình diễn!
Nếu không phải là cái truyền thống, cái máu thịt, không thể có được sự nhịp
nhàng, chính xác đến vậy.
Mặc dầu cộng đồng người Chăm chịu nhiều ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ song lễ hội
Katê lại biểu hiện một lối đi riêng, một thái độ tiếp thu văn hoá gắn với truyền
thống văn hóa bản địa. Những người chủ của lễ hội này, của nền văn hoá Chăm, mặc
dù trong tâm thức, người ta vẫn thờ cúng thần Siva nhưng cộng đồng người Chăm
trên lãnh thổ Việt Nam còn coi trọng, tôn thờ những vị anh hùng dân tộc, kết hợp
hài hoà giữa cái xưa và cái nay, cái quá khứ và cái hiện tại. Vì vậy mà các tháp
Chăm, nơi hành lễ Katê đều gắn liền tên của một ông vua có nhiều công với thần
dân, được mọi người phong thành Thần và tên tháp thờ mang tên ông, như tháp Pô
Klong Garai, Pô Rômê, Pô Nưgar,... Đấy chính là một điểm mấu chốt để nền văn hóa
Chăm mãi mãi vững bền trước các biến cố lịch sử, biểu hiện sức sống mãnh liệt
của văn minh cội nguồn hội nhập với văn hoá Đông Nam Á, làm cho diện mạo của lễ
hội Katê thêm phong phú, đa dạng, hợp lòng người, mãi mãi trường tồn.
Lê Thuận Đăng