Đa dạng văn hóa và sự phát triển xã hội
08:49 11/04/2013 Lượt xem: 458 In bài viếtCác sắc thái văn hóa tộc người: Việt Nam từ thời lập quốc với quốc hiệu Văn Lang - Âu Lạc (cách ngày nay khoảng 2.500 năm) đã là quốc gia đa tộc người. Các dấu hiệu văn hóa hiện tại còn nhận biết được qua các di vật khảo cổ học cho thấy, có thể cư dân của các quốc gia cổ đại ấy nói các ngôn ngữ khác nhau thuộc ngữ hệ Môn - Khmer cổ, Việt - Mường cổ, Tày - Thái cổ.
Cùng với việc mở rộng và củng cố cương vực của các triều đại phong kiến, thì
tính đa tộc người của quốc gia Việt Nam càng trở nên rõ rệt hơn. Theo công bố
chính thức của Nhà nước vào năm 1972, nước Việt Nam có 54 tộc người, thuộc nhiều
nhóm ngôn ngữ - tộc người khác nhau với những sắc thái văn hóa rất phong phú, đa
dạng thể hiện trên ba cấp độ: nhóm ngôn ngữ - tộc người, tộc người và nhóm địa
phương.
Từ các mối quan hệ tộc người, sự tương đồng về những đặc trưng văn hóa cũng thể
hiện khá rõ. Mỗi tộc người thường hình thành các nhóm địa phương, giữa chúng có
những khác biệt nhất định về thổ ngữ (phương ngữ), trang phục, phong tục tập
quán, nghi lễ. Tình trạng đó khiến cho tính đa dạng và phong phú của văn hóa tộc
người càng trở nên sống động và rõ rệt hơn.
Như vậy, xét từ góc độ nguồn gốc và lịch sử, Việt Nam là nơi hội tụ giữa các tộc
người bản địa (Việt - Mường, Môn - Khmer) với các tộc từ phía Bắc di cư xuống (Thái,
Mông - Dao, Tạng - Miến, Hán) và từ biển phía Nam lên (Nam Đảo). Tình trạng cư
trú xen cài giữa các tộc người, một mặt, tạo môi trường thuận lợi cho sự giao
lưu văn hóa; mặt khác, làm tách biệt giữa các nhóm địa phương của tộc người, góp
phần làm suy giảm đáng kể tính thống nhất và cố kết văn hóa giữa các nhóm địa
phương của tộc người, khiến bức tranh văn hóa càng trở nên phức tạp hơn.
Do lịch sử phân bố và di cư của các tộc người, ở Việt Nam đã hình thành nên các
vùng sinh thái - tộc người khác nhau. Chính nhân tố sinh thái tộc người này đã
tạo nên những truyền thống văn hóa khác nhau, góp phần làm phong phú, đa dạng
hơn văn hóa các tộc người Việt Nam.
Các sắc thái văn hóa vùng:
Văn hóa vùng (văn hóa địa phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại
trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng
văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại; về cách tổ chức
xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục và lễ hội; về
các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lý
của cư dân,... từ đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng khác.
Trên cơ sở những quan niệm trên có thể phân vùng văn hóa Việt Nam thành 7 vùng
văn hóa lớn, gồm các vùng văn hóa: đồng bằng Bắc bộ, Việt Bắc, Tây Bắc và miền
núi Thanh - Nghệ, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên và Nam bộ.
Đa dạng văn hóa và sự phát triển xã hội:
1. Từ đa dạng sinh học tới đa dạng văn hóa:
Nếu coi văn hóa là kết quả, là sự thể hiện quá trình thích ứng của con người
trong môi trường tự nhiên nhất định, thì từ đa dạng sinh học đến đa dạng văn hóa
là thuộc về quy luật và mối quan hệ bản chất. Điều đó cũng có nghĩa, muốn bảo
tồn và làm giàu tính đa dạng văn hóa thì phải bắt nguồn từ việc bảo tồn và làm
giàu đa dạng sinh học.
Nếu hiểu khái niệm “sinh học” theo nghĩa bao quát, tức là không chỉ động thực
vật, mà cả con người với tư cách là một bộ phận của tự nhiên, thì từ đa dạng
sinh học đến đa dạng văn hóa là hiểu cả theo chiều tự nhiên với con người và
ngược lại, con người với tự nhiên. Và như vậy cũng có nghĩa là muốn bảo tồn tính
đa dạng về sinh học, về tự nhiên thì cũng phải từ sự bảo tồn tính đa dạng của
văn hóa.
2. Đa dạng và thống nhất của văn hóa:
Không thể nói “đa dạng văn hóa” theo kiểu một chiều, mà văn hóa Việt Nam còn thể
hiện mặt thống nhất của nó, đó là sự thống nhất của đa dạng, từ đa dạng. Sự
thống nhất của văn hóa Việt Nam có cơ sở tự nhiên và con người. Tính chất nhiệt
đới gió mùa quy định hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa nước.
Nguồn gốc và lịch sử tộc người, lịch sử đất nước quy định những xu hướng phát
triển chung của lịch sử văn hóa, có thể tạm phân chia thành 4 giai đoạn chính:
Văn hóa thời Hùng Vương dựng nước; Chuyển tiếp văn hóa thời Bắc thuộc (thế kỷ I
- X); Văn hóa Đại Việt (thế kỷ X - XIX); Chuyển tiếp văn hóa từ cổ truyền sang
hiện đại (văn hóa nông nghiệp sang văn hóa công nghiệp hóa). Với tư cách là một
thực thể văn hóa của quốc gia, văn hóa Việt Nam mang những đặc trưng chung về ý
thức hệ, về đạo đức, hệ thống giáo dục, ngôn ngữ và chữ viết phổ thông.
Nếu coi thống nhất văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải
trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa. Sẽ không có sự thống
nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay
đơn nhất hóa văn hóa. Tuy nhiên, rất tiếc là quá trình đơn nhất hóa này, vô tình
hay hữu ý đang là thực tế diễn ra ở nhiều tộc người hay địa phương của nước ta.
Việc bảo tồn và làm giàu thêm sắc thái văn hóa tộc người và địa phương đang còn
nằm ngoài sự quan tâm thực sự của một số người quản lý văn hóa ở cả Trung ương
và địa phương. Vì vậy, thời gian qua tính đa dạng văn hóa tộc người và vùng ở
nước ta có bị giảm sút, tuy mức độ và tính chất của sự giảm sút đó ở các tộc
người và vùng không đồng đều, nhưng mang tính phổ biến và đáng báo động. Cũng
không thể để cho sự đồng hóa về văn hóa, dù đó là sự “đồng hóa tự nhiên”, đang
diễn ra một cách “tự nhiên” như hiện nay.
Đối với các tộc người số lượng nhỏ đang có nguy cơ bị đồng hóa vào các cộng đồng
người lớn hơn, Nhà nước phải kịp thời phát hiện, tạo ra những điều kiện cần
thiết cho việc phục hưng văn hóa cổ truyền của họ, trước hết là trên lĩnh vực
tiếng nói, chữ viết, giáo dục, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý thức tộc người và
ý thức về bản sắc văn hóa của các tộc người ấy. Hiện nay, chúng ta đã có những
dự án với sự tài trợ của UNESCO nhằm cứu vãn các di sản văn hóa của các cộng
đồng, tộc người nhỏ bé đang đứng trước sự “diệt vong”. Ví dụ như dự án về bảo
tồn văn hóa của tộc người Rơ-măm, Brâu ở Tây Nguyên,...
3. Đa dạng văn hóa và sự giao lưu, hội nhập:
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật chung của sự
phát triển văn hóa nhân loại. Ngày nay thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới với
sự giao lưu và hội nhập vô cùng sống động. Nó là một động lực thúc đẩy sự phát
triển văn hóa và rộng hơn nữa là sự phát triển xã hội. Mọi sự đóng kín, đoạn
tuyệt hay cản trở giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng đều làm mất đi sinh
lực, sức sống và thậm chí dẫn tới sự thoái hóa về mọi mặt của cộng đồng. Thực tế
các tộc người như Chứt, Thổ, Khơ Mú các nhóm thiểu số quen gọi là “Xá lá vàng”
sinh sống ở vùng núi giáp giới giữa nước ta và Lào... đã chứng minh điều đó.
Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển văn hóa và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa của mỗi cộng
đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản sắc, sắc thái văn hóa của mình. Bởi vì, một
cộng đồng với bản sắc riêng như vậy, một mặt, sẽ là cơ sở, “vốn liếng” để giao
lưu, khiến cộng đồng người đó không những không bị “hòa tan”, đồng hóa, mà còn
làm phong phú thêm nền văn hóa của chính mình; mặt khác, trong sự giao lưu ấy,
mỗi nền văn hóa sẽ đóng góp những tinh hoa, sắc thái riêng của mình vào kho tàng
chung của văn hóa nhân loại. Chúng ta đã từng chứng kiến trong quá trình hình
thành và phát triển văn hóa của mình, người Việt đã chủ động tiếp thu những ảnh
hưởng văn hóa của các tộc người láng giềng như: Môn - Khmer, Tày - Thái cổ, Nam
Đảo, sau này cả văn hóa Hán và văn hóa phương Tây nữa. Cho nên có thể nói, văn
hóa Việt là một thí dụ điển hình chứng minh vai trò của giao lưu, hội nhập với
sự hình thành và phát triển của một nền văn hóa là như thế nào.
Sự hội nhập ở đây là sự hội nhập giữa các tộc người trong một quốc gia, hội nhập
quốc gia với quốc tế. Đó cũng là biểu hiện của mối quan hệ giữa bộ phận và toàn
thể trong một hệ thống. Một cộng đồng nào tách mình ra khỏi hệ thống tức là sẽ
tự làm mất đi những khả năng, động lực của xu hướng phát triển chung. Tất cả các
dân tộc trong quốc gia Việt Nam, dù là dân tộc thiểu số hay đa số, không tự phát
triển riêng rẽ, mà hòa vào một xu hướng phát triển chung của cả quốc gia. Đó là
bài học rút ra từ sự nghiệp giải phóng dân tộc trước kia, cũng như sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn, đặc
biệt là với nước ta, một quốc gia nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu vừa thoát ra
từ cuộc chiến tranh kéo dài, nay còn đang “ngỡ ngàng” và chậm bước so với sự
phát triển nhanh chóng của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
4. Tính đặc thù và khả năng phát triển:
Mỗi cộng đồng người dù lớn hay nhỏ, đã phát triển hay còn ở tình trạng lạc hậu,
chậm phát triển đều có một lịch sử truyền thống lâu đời, tích lũy vốn tri thức
và thể hiện qua nền văn hóa của mình. Đó là một nhân tố quan trọng, để tìm kiếm
con đường và khả năng phát triển của cộng đồng đó. Đã có một thời, chúng ta quá
nhấn mạnh đến cái chung, quy luật chung của sự phát triển cho mọi cộng đồng, ít
chú ý tới truyền thống, tính đặc thù, bản sắc riêng của mỗi cộng đồng trong phát
triển. Từ đó dẫn đến tình trạng rập khuôn, áp đặt, duy ý chí trong chủ trương,
chính sách, trong hoạch định kế hoạch phát triển, cuối cùng là hiệu quả đạt được
không như ý muốn.
Nhìn ra thế giới, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc đã nêu tấm gương thành công
cho việc phát triển đất nước từ truyền thống riêng, từ tính đặc thù và bản sắc
văn hóa của dân tộc mình.
Việt Nam là một đất nước thống nhất có nhiều tộc người với sự khác biệt về quy
mô dân số, hoàn cảnh sống, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa.
Do vậy, chiến lược của Đảng và Nhà nước là phát triển toàn diện ở mỗi dân tộc,
nhưng chúng ta cần đặc biệt lưu ý với tính đặc thù và bản sắc dân tộc ấy trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phải nghiên cứu, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng
những mặt riêng có ấy, để từ đó định ra những hình thức, bước đi, biện pháp phù
hợp với mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc.
Xuất phát từ quan điểm đó thì không chỉ đối với nghiên cứu khoa học, mà trước
nhất là đối với thực tiễn phát triển hiện nay, vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu, phát
hiện tính đặc thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa phương có vai trò
rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc hoạch định các chương trình phát
triển kinh tế-xã hội ở các tộc người, các địa phương, nhất là với các tộc người,
địa phương còn ở trình độ phát triển chậm, mang nhiều nét đặc thù. Đối với những
hoạt động ở tầm vĩ mô, như tổ chức triển lãm các mặt hàng tiêu dùng toàn quốc,
triển lãm ngành nghề truyền thống, mang tính cạnh tranh, thi tài “đọ sức” giữa
các vùng, miền, những cuộc thi thời trang, giọng hát, nhạc cụ hay giữa các dân
tộc đủ thể hiện sự chuyển biến bước đầu trong nhận thức về phát huy sức mạnh
tính đa dạng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong quá trình chuyển đổi
cơ chế ở nước ta.
5. Về mô hình tổng thể phát triển văn hóa các dân tộc ở nước ta:
Trong điều kiện nước ta, muốn cho văn hóa các dân tộc được giữ gìn, bảo tồn, làm
giàu và phát huy vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển đất nước, thì lựa
chọn mô hình tổng thể “Đa văn hóa” (đa văn hóa, đa ngôn ngữ) là phù hợp hơn cả.
Mô hình phát triển này vừa phù hợp với thực tế “thống nhất và đa dạng” của văn
hóa các dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu hướng chung của phát triển đất nước
hiện nay và tương lai. Đó là phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng
sống của con người, nhưng vẫn giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa độc đáo của
mỗi dân tộc, mỗi địa phương.
Nói tới mô hình “Đa văn hóa” trong phát triển văn hóa của các dân tộc ở nước ta
là nói tới một mô hình tổng thể, trong đó thống nhất và đa dạng là hai mặt của
một thực thể văn hóa. Do vậy, không thể cường điệu mặt đa dạng để dẫn tới suy
yếu tính thống nhất, cũng như cường điệu sự thống nhất, hợp nhất, đơn nhất để
làm thui chột đi tính đa dạng. Chỉ có đặt sự đa dạng trong thể thống nhất thì sự
đa dạng đó mới thực sự trở thành nền tảng, động lực của sự phát triển văn hóa
nói riêng và của cả xã hội nói chung.
GS.TS NGÔ ĐỨC THỊNH
Viện Khoa học - xã hội Việt Nam