Vua Hùng trong tín ngưỡng nguồn cội của người Việt
09:44 11/04/2013 Lượt xem: 497 In bài viếtTrải suốt chiều dài lịch sử, hình tượng Vua hùng đã tạo nên một tín ngưỡng hùng vương với tư cách là biểu tượng cội nguồn của quốc gia-dân tộc. Ngày 6/12/2012, UNESCO thông qua Quyết định công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam để luôn vượt qua khó khăn, thách thức trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước và chống giặc ngoại xâm.
1. Vua Hùng trong tòa chính sử đầu tiên của dân tộc Việt Nam:
Vua Hùng là Tổ của dân ta - Thủy tổ của người Việt. Ông Vua đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam, “Thánh Vương ngàn đời của Cổ Việt”. Các thế hệ người Việt Nam
đương đại mặc nhiên thừa nhận và tự hào là con cháu Lạc Hồng - dòng giống Rồng
Tiên. Hàng năm ngày 10 tháng 3 Âm lịch lại cùng nhau nô nức hành hương về miền
đất Tổ để viếng mộ thăm đền, dâng hương thờ cúng Tổ tiên.
Với ý thức tìm lại những dòng lạc khoản đầu tiên của các sứ thần Việt Nam ghi
chép về Hùng Vương và chính thức hóa đưa vào tòa Chính sử Việt Nam để dựng lại ý
nghĩa của việc đồng bào Việt Nam, trăm cành một gốc, trăm họ một nhà, cùng tôn
vinh Vua Tổ.
Sách “Lĩnh Nam chích quái” của Trần Thế Pháp thế kỷ XIII là một tập sách ghi
chép về những chuyện cổ tích và truyền thuyết của nước ta. Ở đó những chuyện “Họ
Hồng Bàng”, “Truyện Ngư Tinh”, “Truyện Đổng Thiên Vương”, “Truyện Nhất dạ trạch”,
“Truyện Mộc Tinh”, “Truyện trầu cau”, “Truyện dưa hấu”, “Truyện Lý Ông Trọng” đã
phản ánh về thời các vua Hùng nhưng chủ yếu tập trung giải thích về nguồn gốc
“đồng bào” Việt Nam, về ý thức lao động của con người để chinh phục thiên nhiên,
cải tạo thiên nhiên, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống cho chính mình:
Chử Đồng Tử khai phá đầm lầy; Mai An Tiêm cải tạo đảo hoang, trồng nhiều dưa hấu,
buôn bán trao đổi sản vật; Tản Viên Sơn đắp đê chống lụt; Mẫu Âu Cơ dạy dân cấy
lúa, làm bánh, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải…
Cũng trong thời gian này, sách “Việt Sử Lược” (biên soạn năm 1377) đã chép về
Hùng Vương dựng nước Văn Lang nhưng Vua với tư cách là 1 pháp sư tài giỏi thâu
tóm được quyền lực của các bộ tộc để trở thành một vị thủ lĩnh tối cao của bộ
lạc.
Năm 1372, Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc với sách “Việt Nam Thế Chí”, ông là
người đầu tiên đưa vào chính sử các vị Hùng Vương vừa như một nhân vật lịch sử,
lại vừa như là tinh thần dân tộc để nhắc nhở, răn dạy con cháu theo quan niệm
trung hiếu của Nho giáo với những người có công dựng nước.
Năm 1435, trong sách “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi đã nhắc đến Hùng Vương theo thư
tịch thời Trần như một niềm tự hào dân tộc.
Năm 1470, vua Lê Thánh Tông - niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) đã cho Hàn lâm
viện Trực học sĩ Nguyễn Cố lập Ngọc phả Hùng Vương với tên gọi đầy đủ là “Ngọc
phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng”. Với sự ra đời của bản ngọc
phả này, Hùng Vương đã được chính thức hóa trong tòa chính sử Việt Nam và từ đây
vua Hùng đã có tông phả ở giữa thế gian. Cũng nhờ có tông phả đó mà triều đình
Hậu Lê mới có đủ điều kiện để làm lễ “tế giao” như các vua phương Bắc, để xác
nhận quyền độc lập quốc gia và quyền lực chuyên chế của ông vua nước Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã
chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác” (Bình ngô đại cáo - Nguyễn Trãi).
Năm 1497, trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã có đầy đủ
yếu tố thuận lợi để đưa họ Hồng Bàng vào chính sử Việt Nam. Đó là bước phát
triển vượt bậc trong ý thức hệ và tư duy của Nho giáo phong kiến Việt Nam xưa
luôn hạ mình là hàng “phiên thần” trong ý thức tự ti, chia sẻ văn hóa theo thứ
bậc để vượt lên ý thức tự tôn dân tộc, văn hóa bác học ngang hàng với nước lớn
phương Bắc.
Từ đây về sau vua Hùng được gọi là Thánh tổ và được chính quyền Trung ương công
nhận; nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước xây đền thờ phụng. Đền Hùng thuộc
xã Hy Cương, TP. Việt Trì được lưu giữ Ngọc phả Hùng Vương và nhân dân xã Hy
Cương được vinh dự là dân trưởng tạo lệ hương hỏa ngàn thu lăng miếu các Vua
Hùng.
2. Vua Hùng trong ảnh xạ văn hóa tâm linh của người Việt:
Trải qua hàng trăm năm, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, từ ngữ danh xưng Hùng
Vương đã được tích tụ dần trở thành chính thống bằng việc soạn dựng “Ngọc phả cổ
truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng”. Năm 1470, triều đại Hậu Lê đã
khẳng định vị trí độc tôn dựng nước, sinh dân tộc thuộc về các Vua Hùng. Vấn đề
“Quốc Tổ” đã được gắn với “Hùng Vương” thay vì chữ nghĩa “Lạc Vương” trong tâm
thức vương quyền vay mượn của một dân tộc chưa khẳng định nền quốc gia độc lập.
Từ đây trong ảnh xạ văn hóa tâm linh của người Việt - Vua Hùng hiển hiện như
bình diện của ý thức tự cường của một quốc gia hùng mạnh:
“Trải Triệu - Đinh - Lý - Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán - Đường - Tống - Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Sách “Việt sử lược” đời Trần chép: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 - 682 trước
công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc,
tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính
sự dùng lối kết nút, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Như vậy, trong
ký ức văn hóa của nhân dân, hình ảnh Vua Hùng được khắc họa là ông vua mở nước
dựng làng; để rồi ở các thế kỷ sau chính ông vua ấy lại trở thành ông Tổ của
người Việt, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con - hình thành nên
nghĩa “đồng bào”.
Nhiều thế kỷ nay với người Việt Nam, “đồng bào” đã trở thành ý thức bình diện và
niềm tự hào dân tộc; điểm hội tụ của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, điểm hội
tụ ấy đã trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam.
3. Vua Hùng trong tín ngưỡng nguồn cội của nhân dân:
Vua là Tổ của dân. Dân là gốc của một nước. Nước muốn vững bền nhờ dân luôn
thịnh trị, dân được thịnh trị trông ơn mưa móc tổ tiên.
Trong sự thăng tiến phẩm trật của thần linh, vua Hùng từ quan niệm ban đầu là
thần núi với các mĩ tự: “Đột Ngột Cao Sơn; Viễn Sơn; Ất Sơn” dần trở thành tín
niệm trong tâm thức dân gian. Tín niệm ấy được lan tỏa rộng ra và trở thành niềm
tin thiêng liêng của mỗi người dân đất Việt - niềm tin vào tổ tiên và sức mạnh
thiêng liêng tiềm ẩn của các thế lực siêu nhiên tuy không cùng sống, cùng sinh
hoạt song đang đồng hành trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của nhân dân: tín
ngưỡng thờ cúng Vua Hùng - thờ cúng Tổ tiên.
Trong tâm thức của nhân dân ta từ bao đời nay, Vua Hùng là vị vua Thủy tổ dựng
nước, là tổ tiên của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Ghi nhớ và tôn
vinh công lao dựng nước của tổ tiên là một hành vi văn hóa, ý thức đạo đức và
bổn phận mỗi người. Dân tôn thờ vua là Thánh: Thánh Tổ Hùng Vương. Dựa vào uy
linh của Thánh, ý thức cộng đồng đã được hình thành và phát triển, từ trong gia
đình, gia tộc đến hàng xóm trong cả nước theo quan hệ huyết thống: dòng máu Lạc
Hồng, con cháu Lạc Hồng.
Người Việt Nam luôn sống với nhau có nghĩa có tình, có thủy có chung, có trên có
dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có tổ có tông… sống có
văn hóa - văn hóa cộng đồng. Văn hóa ấy là tấm gương phản chiếu sự hiểu biết
những niềm tin và phong tục cổ truyền của một dân tộc. Trong sâu thẳm tâm hồn
người Việt Nam ai cũng luôn quan niệm rằng: chúng ta là người sinh ra cùng một
bọc (đồng bào) là con cháu Lạc Hồng - dân cả nước đều là anh em một nhà.
“Con người có Tổ có tông/Như cây có gốc, như sông có nguồn”.
Ngày nay quan niệm đó càng được nhân lên gấp bội. Con cháu ở đâu, ông bà - tổ
tiên ở đó. Quan niệm đó dần trở thành ý thức hệ được hun đúc trong từng con
người trong cả cộng đồng. Vua Hùng đã hiển nhiên tồn tại và ngự trị trên bình
diện ý thức tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Tổ phát triển không chỉ trên
vùng đất Tổ mà xuyên cả quốc gia, vươn tới các cộng đồng người Việt đang sống xa
tổ quốc ở các quốc gia khác. Người Việt lập làng ở đâu sẽ xây đền thờ Tổ Hùng ở
đó; cúng giỗ Tổ ở đó để cùng nhau “uống nước nhớ nguồn”, tri ân công đức Tổ tiên.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng dù trong lúc đất nước thái bình hay trong
những khi vận mệnh cam go nhất, Vua Hùng vẫn hiển diện như một nguồn lực vô tận
xuyên suốt cả thời gian lẫn không gian đến với từng người dân Việt Nam, từng gia
đình người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu trong nước hay ngoài biên giới tổ quốc, như
một động lực tinh thần cổ vũ niềm tin và sức mạnh cho toàn dân tộc tiến lên phía
trước, phát triển và hội nhập toàn cầu.
Vua Hùng trong tín ngưỡng nguồn cội của nhân dân đã trở thành niềm tin thiêng
liêng của dân tộc Việt Nam. Vật chất có thể sẽ thay đổi, thậm chí sẽ mất đi song
niềm tin thiêng liêng đó sẽ còn lại mãi mãi với thời gian, trường tồn cùng lịch
sử trong kí ức của mỗi con người.
Phạm Bá Kiên