Đắk Nông bảo tồn văn hóa dân tộc bản địa
04:29 01/07/2013 Lượt xem: 2986 In bài viếtTỉnh Đắk Nông được thành lập năm 2004 trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đắk Lắk. Trên địa bàn tỉnh có 29 dân tộc cùng sinh sống tại 07 huyện, 01 thị xã, với 71 xã, phường, thị trấn; toàn tỉnh có 500 nghìn người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có 125.273 người (chiếm tỷ lệ 34,5%), đồng bào dân tộc tại chỗ có gần 40.000 người. Người M’nông là cư dân bản địa có số dân đông nhất sinh sống ở vùng đất này từ lâu đời bên cạnh người Mạ, người Ê Đê.
Không phải đến bây giờ, việc bảo tồn, kế thừa, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa mới được đề cập đến. Nhiều năm gần đây, từ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ngành văn hóa của tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp thiết thực nhằm lưu giữ vốn văn hóa bản địa, đồng thời quảng bá rộng rãi bản sắc dân tộc M’nông, Mạ, Ê Đê Đắk Nông đến với mọi miền tổ quốc.
Bà Lê Thị Hồng An, Trưởng phòng nghiệp vụ Văn hóa-Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Nông cho biết, trong những năm qua tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về việc bảo tồn, kế thừa di sản văn hóa dân tộc bản địa cho cộng đồng dân cư. Đặc biệt, Đề án “Bảo tồn, phát huy lễ hội, hoa văn, cồng chiêng và nhạc cụ dân gian của dân tộc M’nông tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2005 - 2009”, mở rộng Đề án giai đoạn 2010 - 2015 đã đạt được những kết quả nhất định và có giá trị thực tiễn trong công tác bảo tồn.
Phụ nữ dân tộc bên khung cửu(Ảnh Thu Châu)
Các dân tộc bản địa M'nông, Mạ và Ê Đê có đời sống văn hóa phong phú và đa dạng, đặc biệt là văn hóa dân gian. Ngoài những di sản văn hóa phi vật thể như: các nghi lễ - lễ hội, truyện cổ, lời nói vần, luật tục sử thi (Ot N'drông) với tầm vóc và số lượng đồ sộ: hàng ngàn, hàng vạn câu văn vần, đặc biệt là di sản văn hóa cồng chiêng cùng với những làn điệu dân ca, dân nhạc đã góp phần làm nên "Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên" nổi tiếng khắp trong và ngoài nước... Họ còn là chủ nhân của nhiều hiện vật văn hóa độc đáo như: Đàn đá Đắk Kar ở xã Quảng Tín, huyện Đắk R'lấp…
Cư dân bản địa Đắk Nông sống tập trung thành từng đơn vị hành chính (bon), có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời trong dòng chảy văn hóa các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên (không gian văn hóa cồng chiêng). Sự gắn kết về không gian sống đã tạo nên một sự gắn bó mật thiết khiến những đặc trưng văn hóa các dân tộc bản địa tự thân đã có sức sống tương đối bền vững. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển tất yếu của xã hội, cùng với sự du nhập khá ồ ạt của văn hóa các dân tộc khắp cả nước cư trú ở vùng đất này nên vấn đề bảo tồn, phát huy văn hóa bản địa Đăk Nông đứng trước những thách thức không nhỏ: Một số sử thi bị lãng quên; lễ hội bị mai một; số lượng nghệ nhân am hiểu sâu sắc văn hóa dân tộc rơi rụng dần; không gian sống, không gian văn hóa bị thu hẹp đáng kể vì nhiều lý do như đã nói. Nhất là quan niệm của một bộ phận giới trẻ người M’nông, Mạ, Ê Đê có xu hướng đi theo lối sống hiện đại, quên lãng dần văn hóa truyền thống…
Thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Nông cho thấy, trong gần 10 năm qua, tỉnh Đắk Nông đã khôi phục được khoảng 30 lễ hội của các nhóm dân tộc; tổ chức được trên 100 lớp truyền dạy (cồng chiêng, chế tác và sử dụng nhạc cụ, hát dân ca, dệt thổ cẩm, đan lát và làm cây nêu...); thành lập được 8 câu lạc bộ cồng chiêng và 8 đội văn nghệ dân gian; mua sắm hơn 200 bộ trang phục dân tộc cấp cho các nghệ nhân dân gian; cấp 91 bộ chiêng cho các nhà văn hóa cộng đồng.
Đề án Bảo tồn, phát huy Lễ hội - Hoa văn - Cồng chiêng và Nhạc cụ dân gian của các dân tộc bản địa tỉnh Đắk Nông bước đầu đã khôi phục lại một số hoạt động văn hóa truyền thống có hiệu quả như: khôi phục các lễ hội, các bài chiêng, các làn điệu dân ca, cách chế tác và sử dụng nhạc cụ dân gian, khôi phục kiến trúc nhà ở truyền thống, các hoa văn được thể hiện trên cây nêu, cột lễ trong lễ hội, trang phục truyền thống, đã tạo dựng được một đội ngũ nghệ nhân trẻ kế cận để đảm nhận sự trao truyền kinh nghiệm của thế hệ đi trước, ... Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có khoảng 1.231 nghệ nhân cồng chiêng; 431 bộ chiêng (gồm cả 91 bộ chiêng do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông cấp mới).
Văn hóa cồng chiêng của đồng bào dân tộc
Đặc biệt, việc tổ chức khôi phục lễ hội, tạo môi trường diễn xướng và thể hiện của các loại hình nghệ thuật dân gian được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông chú trọng. Nhiều hoạt động tập huấn, đào tạo và đặc biệt là công tác truyền dạy từ người già, từ các nghệ nhân tới thế hệ sau được quan tâm tổ chức. Tỉnh đã thí điểm đưa vào các trường phổ thông dân tộc nội trú những bài giảng về di sản văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa cồng chiêng nói riêng nhằm nâng cao nhận thức cho giáo viên dạy hát nhạc và học sinh các trường phổ thông trên địa bàn; tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp tổ chức quản lý hoạt động văn hóa dân gian cho cán bộ cơ sở, già làng, trưởng bon và các nghệ nhân là nòng cốt ở các địa phương; tổ chức các kênh truyền dạy cho nhiều đối tượng là người dân tộc tại chỗ yêu thích loại hình nghệ thuật, văn hóa truyền thống. Đối với tỉnh Đắk Nông, hoạt động truyền dạy và tập huấn được coi là then chốt giúp các “chủ thể” có thể tự bảo vệ, lưu truyền và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát hành các ấn phẩm vừa có tác dụng giới thiệu, quảng bá, hỗ trợ công việc truyền dạy đồng thời có tác dụng lớn trong việc động viên, khích lệ cộng đồng bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Với lượng ấn phẩm được phát hành khá phong phú: 500 cuốn sách ảnh, 1.000 tấm áp phích, 250 bộ DVD do UNESCO tài trợ đã góp phần giới thiệu về văn hóa cồng chiêng của các dân tộc bản địa. Ngành văn hóa có thể mang đến cho đồng bào những tư liệu quý giá qua đó có tác dụng khuyến khích bà con các bon làng tham gia các hoạt động mang tính bảo tồn văn hóa truyền thống.
Ngày mùa
Nhìn vào những con số như trong báo cáo của ngành văn hóa Đắk Nông, có thể khẳng định công tác bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc bản địa ở Đắk Nông trong những năm qua đã đạt được thành quả đáng khích lệ. Đó là sự kết hợp có chọn lọc, có chủ đích giữa các thành tố văn hóa dân gian như lễ hội, hoa văn, trang phục, các loại hình âm nhạc dân gian gắn với đặc điểm không gian sống của cộng đồng dân tộc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, thời gian tới, công tác bảo tồn văn hóa dân tộc bản địa ở Đắk Nông cần nhận được sự quan tâm đúng mức của tất cả các chủ thể: chính quyền, người nghệ sĩ, nghệ nhân và người dân; chú trọng những yếu tố đặc biệt có giá trị rộng lớn hoặc mang tính cấp thiết; trong việc truyền dạy cũng cần kết hợp giữa kinh nghiệm và phương pháp, chọn lọc, đối chiếu, phối hợp; hoạt động văn hóa nên được quan tâm hơn nữa và chú trọng tới không gian sống của cộng đồng dân cư; công tác quảng bá, phát huy, giới thiệu, tổ chức sự kiện cũng phải được tổ chức có quy mô và đề cao tính thực tiễn thông qua di sản; việc hoàn thiện, bổ sung, nâng cao nhận thức cho người dân cũng như hạn chế những du nhập văn hóa ngoại lai…
Nhìn chung, đối với một tỉnh mới thành lập, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như Đắk Nông, việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc bản địa rõ ràng đã có sự quan tâm tương đối đầy đủ, bởi giá trị mà nó mang lại rất có ích cho mai sau, trước khi nhiều giá trị văn hóa bị mai một, bị quên lãng hoặc phải mất rất nhiều tiền của, công sức để phục dựng; chưa kể việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc bản địa, gắn với không gian sống cũng sẽ mang lại nguồn lợi không nhỏ về du lịch, dịch vụ đối với đời sống kinh tế-xã hội của những địa phương có thế mạnh.
Việt Dũng
[TT: PLN]