Người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ với nghi lễ tang ma dành cho Thầy Tào

01:56 02/08/2013 Lượt xem: 1209 In bài viết

Đầu tiên là về thầy Tào trong cộng đồng người Nùng Phàn Slình truyền thống. Từ xưa tới nay, số lượng người được làm thầy trong cộng đồng rất ít. Chính vì thế, họ luôn được cộng đồng tôn trọng đặc biệt. Thầy Tào là người được dân gian quan niệm là có mắt sáng hơn người bình thường nên còn được gọi là “cần thá lủng” (người mắt sáng). Họ được xem là có thể nhìn và cảm nhận được sự tồn tại của thế giới thần linh, ma quỷ, tiếp xúc được với thế giới âm thông qua xin quẻ âm dương. Ngoài ra họ còn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc mình.

Theo quan niệm của đồng bào, nếu ở thế giới thực tại được làm thầy thì khi về thế giới bên kia vẫn được làm thầy. Ở thế giới âm cũng có một xã hội giống như xã hội của những người đang sống. Khi thầy Tào mất, con cháu trong gia đình phải làm lễ để đưa linh hồn thầy đi lấy kinh bên kia thế giới. Lễ vật bắt buộc phải có là một con gà trống choai và 3 bát gạo - là nguồn lương thực để nuôi âm binh của thầy trên đường đi lấy kinh. Thầy Tào là người giỏi chữ nghĩa nên thầy cúng và con cháu trong gia đình phải thực hiện nghi lễ "slải slỉ" (đi chữ). Nghi lễ này được thực hiện từ sáng sớm. Thầy cúng và con cháu đi ra ngoài ruộng hoặc vườn nhà. Lễ vật bắt buộc phải có trong nghi lễ này là một con dê đực kèm theo 3 mâm lễ mặn. Tại đây, thầy cúng yểm bùa vào các góc ruộng của gia đình và bắt đầu làm lễ gọi tổ tiên về chứng giám. Thầy đi trước, con cháu đi sau theo thứ bậc trong dòng họ và gia đình. Họ sẽ đi ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Điều này thể hiện mặc dù thầy Tào đã mất đi nhưng vẫn để lại lộc cho con cháu. Đây là một nghi lễ bắt buộc phải được thực hiện trong quá trình tang ma của thầy Tào.

Đặc biệt trong trong đám ma không thể thiếu các bài Mo khóc than. Mo là một hình thức cúng phổ biến của người Nùng Phàn Slình. Lời mo thể hiện sự tiếc thương của con cháu và cộng đồng đối với người đã mất… Sau bài mo khóc than, con cháu lại đi vòng quanh quan tài theo chiều ngược kim đồng hồ ba vòng. Đồng bào quan niệm nam đi theo chiều nghịch, nữ đi theo chiều thuận, ứng với quan niệm âm dương ngũ hành trong dân gian. Họ quan niệm vòng đi này để đưa tiễn linh hồn thầy Tào lên thiên đường được vĩnh hằng.

Tiếp đến là nghi lễ tế minh tinh của bên ngoại, của con gái, cháu gái. Đối với thầy Tào, nghi lễ tế minh tinh khác người bình thường. Trong 4-5 giờ, các con gái, cháu gái phải dâng cúng dê hoặc ngỗng. Theo quan niệm của đồng bào đó là những con vật đảm trách tiễn đưa linh hồn thầy về bên kia thế giới.

Đến phần chăm lẩu (mời rượu), con dâu, con gái phải đi vòng quanh quan tài của thầy Tào để mời tổ tiên về chứng giám. Bên trái quan tài ứng với dương, ứng với tổ tiên bên nội; bên phải quan tài ứng với âm, ứng với tổ tiên bên ngoại. Tổ tiên hai bên nội, ngoại đều chứng kiến việc những người còn sống mời rượu tổ tiên và người mất. Con cháu trong gia đình cứ người nọ nối tiếp người kia cầm bình rót rượu, không đặt xuống dưới đất. Điều đó thể hiện chu kì quay tròn không có đứt quãng, tượng trưng cho sự đoàn kết, gắn bó của các thành viên trong dòng họ và đạo hiếu với người đã khuất.

Trong đêm tổ chức nghi lễ tang ma cho thầy Tào, còn có nghi lễ khoảy slư (múa chữ) vòng quanh quan tài, kéo dài khoảng ba mươi phút. Một đội thầy được mời tới múa cùng đại diện các thầy đang thực hiện nghi lễ cho gia chủ. Một thầy múa các động tác của chim phượng, còn thầy kia sẽ múa động tác của con rồng đáp lại, sau đó lại đổi vai cho nhau. Các động tác múa diễn ra nhanh, mạnh mẽ và dữ dội thể hiện niềm vui của rồng, phượng hội ngộ. Nếu thầy Tào đã mất càng cao tay thì lượng rồng, phượng trong đám ma càng nhiều.

Sau khi múa xung quanh quan tài, hai đội thầy cúng sẽ hát mo sli đối đáp với nhau khoảng 20 phút. Nội dung của bài hát thể hiện sự tiếc thương của con cháu, gia đình, họ hàng và làng bản đối với thầy Tào. Sau khi hát xong thì phải đốt tiền để cho linh hồn thầy Tào mang về thế giới bên kia.

Sinh thời, mỗi lần thầy Tào được làm lễ cấp sắc thì cúng Trời, Đất một con dê đực. Khi thầy mất, con vật ấy cũng phải có trong nghi lễ để cho linh hồn thầy Tào mang về thế giới bên kia. Người Nùng nói chung, nguời Nùng Phàn Slình nói riêng đều coi dê là con vật sạch sẽ dùng để hiến tế thần linh. Dê là loài chỉ ăn các loại lá cây non trên rừng, trên núi, tuyệt nhiên không ăn tạp như các loại động vật khác.

Biểu tượng bài vị của người làm thầy Tào khi được làm lễ cấp sắc được đặt phía chân quan tài. Trên bài vị đó có ba cây tre nhỏ được cuốn giấy đỏ. Bên dưới họ để một cân gạo. Gạo này để nuôi âm binh của thầy Tào trong thời gian thực hiện nghi lễ tang ma. Thêm nữa, họ còn phải cúng một con gà đặt trong một tàu chuối xanh, toàn bộ lục phủ ngũ tạng của con lợn, 12 bát thịt lợn và 12 bát tiết canh đặt trong hai mâm. Họ quan niệm một năm có 12 tháng, một ngày có 24 giờ vì vậy phải có chừng ấy bát thức ăn cho linh hồn thầy Tào. 12 bát thịt lợn và 12 bát tiết canh thể hiện cho thời gian năm và ngày.

Sau khi các thủ tục đã xong, gia đình bắc một mảnh vải trắng từ chân quan tài lên phía trên mái nhà đã dỡ mấy viên ngói để tiễn đưa linh hồn thầy Tào về trời. Con, cháu đứng hai bên tấm vải trắng đó. Nam đứng một bên, nữ đứng một bên. Thầy Tào đứng cuối cùng tay cầm slao cản và tờ giấy ghi họ tên và ngày tháng năm sinh của thầy Tào.

Nghi lễ đưa tang cho thầy Tào diễn ra vào sáng sớm. Trước khi đưa quan tài ra khỏi nhà, thầy cúng phải trải một tấm vải trắng từ bàn thờ đến cửa. Trên tấm vải đó họ để một chiếc mũ, một con rồng và một cái kiếm bằng giấy. Thường là con, cháu ít tuổi nhất trong nội tộc sẽ được đeo kiếm và cầm con rồng này ra ngoài mộ. Họ cũng làm lễ đốt hết sách của thầy Tào để ông mang sang bên kia thế giới hành nghề. Toàn bộ sách cúng của thầy được trải dài từ bàn thờ tổ tiên cho ra đến cầu thang (nơi đưa quan tài thầy xuống). Thầy Tào chủ lễ sẽ dùng slao cản vẽ chữ Phúc và chữ Đức tượng trưng vào tay các con trai, cháu trai với ngụ ý người thầy đã mất để lại phúc đức cho con cháu sau này.

Trước khi hạ huyệt, người Nùng Phàn Slình cũng giống như các dân tộc khác đều phải làm lễ cúng thổ thần. Sau khi hạ huyệt, tang quyến cùng với thầy làm lễ hóa sớ, nhà táng, linh sa, tiền giấy, vàng mã, tư trang, vật dụng của người chết. Trong nghi lễ tế thổ thần, thầy Tào và trưởng nam hoặc một cháu nội trong gia đình phải xuống huyệt làm lễ, con cháu đưa lễ vật xuống huyệt mộ, thắp hương tế thổ thần xin phép được hạ huyệt. Đồng bào quan niệm tang ma là chuyện chẳng lành, không vui, là cái hạn lớn mà mỗi gia đình phải chịu, nếu không làm lễ cẩn thận họa sẽ nhiều hơn. Vì vậy trong nghi lễ đưa tang, hạ huyệt họ đã kết hợp làm lễ hồi lộc và cầu an cho gia súc.

Trong các buổi sáng của ba ngày đầu mới mất, con cháu mang theo xôi, gà, thịt, rượu, tiền vàng ra mộ cúng cho linh hồn người chết ăn. Trong suốt 24 tháng, con cháu phải cúng cơm mỗi ngày hai bữa đạm bạc trong nhà để cho linh hồn thầy Tào được đầu thai khỏe mạnh.

ThS. Đàm Thị Tấm

Đại học Khoa học(Đại học Thái Nguyên)

[TT: PLN]