Một vài suy nghĩ về đổi mới công tác báo chí tuyên truyền về miền núi vùng đồng bào dân tộc thiểu số
02:44 11/04/2013 Lượt xem: 351 In bài viếtHồi còn làm báo ở Tây Nguyên, cách đây hơn mười năm, khi tôi về Quảng Ngãi làm việc với đồng chí Trần Kiên, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, một người có bề dày công tác ở Tây Nguyên để lấy tư liệu viết cuốn sách “Dấn thân”. Khi đề cập đến báo chí, ông bảo tôi thế này: “Đọc nhiều bài báo mình thấy chán lắm vì toàn nói suông. Viết báo không chỉ nói nghị quyết chung chung, mà phải phân tích, chỉ bảo, bày vẽ, hướng dẫn cho cơ sở làm, cán bộ làm, dân làm. Mình không phải nhà báo nhưng vẫn nhớ câu Bác Hồ nói “Cán bộ báo chí là cán bộ cách mạng”. Đảng tin báo chí. Dân tin báo chí. Sung sướng quá”. Nghe ông nói mà tôi không khỏi băn khoăn, suy nghĩ.
Nói suông và không có tính phát hiện đó là tình
trạng phổ biến ở nhiều bài báo. Báo chí tìm tòi, phát hiện, biểu dương cái mới,
nhưng cũng phải chỉ ra những khuyết tật, chưa làm được hoặc những dấu hiệu gây
nguy hiểm ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ, an ninh đất nước, hạnh phúc
người dân. Trước khi xảy ra vụ bạo loạn do các thế lực phản động tổ chức ở Tây
Nguyên năm 2001 và vụ bạo loạn ở Mường Nhé, Điện Biên, năm 2011, không có báo
nào viết bài chỉ ra một cách cụ thể về các dấu hiệu gây bạo loạn ở các địa chỉ
nói trên. Điều bất ngờ nhất là người tham gia biểu tình, bạo loạn lại chính là
đồng bào của ta bị các thế lực thù địch lừa gạt, xui khiến. Năm 2004, có gia
đình một người dân địa phương tỉnh Gia Lai, cán bộ tỉnh, huyện thường chọn làm
nơi ở mỗi khi về công tác, đúng hôm có cán bộ tại nhà, người trong gia đình lại
đi biểu tình, vậy mà cán bộ không biết. Lại như năm 2011 ở Mường Nhé, Điện Biên,
khi xảy ra sự việc giải quyết xong rồi mới biết huyện này có rất nhiều dân di cư
tự do từ nơi khác đến. Còn ở những nơi không có yếu tố “địch”, lại nảy sinh tình
trạng đốt phá rừng làm nương rẫy, tiếp tay cho lâm tặc, buôn bán ma túy, buôn
người, vượt biên trái phép…các vấn đề “nóng” nảy sinh ở vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số có một phần do cán bộ nói chung và cán bộ báo chí nói riêng không
đi sâu, đi sát, không làm tốt công tác tuyên truyền, vận động theo đúng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền, vận động không
đi đôi với thực hành, tuyên truyền theo kiểu cũ, không đổi mới, không sát thực.
Hàng năm, từ nhiều nguồn, Nhà nước bỏ ra một khối lượng tiền lớn đầu tư cho báo
chí tuyên truyền về miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số nhưng hiệu quả
không được như mong muốn. Báo để đọc, đài để nghe, để xem dẫu có tiếp cận nhưng
đồng bào vẫn không hiểu hết. Các báo địa phương ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam bộ cùng một lúc ra các ấn phẩm báo viết, báo điện tử, tin ảnh, nhưng cả
nội dung và hình thức thể hiện đều ít sát với thực tế. Tiếng là viết về đồng bào
dân tộc thiểu số và dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số nhưng lại như viết
cho đồng bào Kinh, ai đọc, ai nghe cũng được. Đã có chuyện một tờ báo ở tỉnh này
đăng một bài báo về xây dựng Đảng ở tờ báo của tỉnh khác rồi độ lại, thay tên,
đổi họ, còn nội dung giữ lại nguyên xi. Rồi như mới đây, đang diễn ra vụ kiện ầm
ỹ về chuyện ông trưởng phòng biên tập Đài PT-TH ở một tỉnh Tây Nam bộ cóp bài
trên mạng của báo khác, độ lại rồi phát sóng mấy năm liền để lấy tiền nhuận bút.
Các báo viết bài tuyên truyền các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước về miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số nhưng nặng về trích dẫn văn
bản không đi sâu phân tích, giới thiệu những nét mới, những điều cụ thể hơn,
khiến cán bộ, đảng viên và người dân vẫn tưởng như cũ. Tuyên truyền về khai
hoang, làm thủy lợi, thủy điện không gắn với tuyên truyền bảo vệ nguồn tài
nguyên rừng, khiến cho rừng bị chặt phá, môi trường sinh thái bị hủy hoại, dẫn
đến tình trạng khô hạn, lũ lụt, mất mùa ở nhiều địa phương. Tuyên truyền về việc
đưa đồng bào vào làm công nhân trong các doanh nghiệp trồng cao su, cà phê hay
các loại cây công nghiệp xuất khẩu khác không gắn với việc giải quyết quỹ đất
cho bà con trồng trọt, chăn nuôi ngoài thời gian làm việc tại doanh nghiệp.
Tuyên truyền, cổ vũ cho lối sống mới, hiện đại đến mức quá đà, khiến cho một bộ
phận không chỉ lớp trẻ mà cả người cao tuổi cũng mất dần phong tục, tập quán tốt
đẹp mang đậm bản sắc của đồng bào dân tộc tại chỗ. Khắp trong Nam, ngoài Bắc, đi
tới tỉnh miền núi nào cũng gặp cảnh người ở các làng bản ăn mặc, nói tiếng phổ
thông hệt như người đồng bằng, thậm chí có người còn quên cả tiếng dân tộc mình.
Có báo tuyên truyền cho dân nuôi con đi học để làm…cán bộ, được về huyện, về
tỉnh, thậm chí về Trung ương sống cuộc đời sung sướng, không phải lao động vất
vả như người ở làng bản. Cách tuyên truyền như vậy dẫn đến tình trạng người dân
tộc thiểu số muốn cho con mình thoát khỏi địa phương, cũng tìm cách đút lót, hối
lộ để chúng được đỗ đạt, được công ăn việc làm như ý muốn. Lại có kiểu tuyên
truyền phản ánh quá nhiều, quá sâu về những khó khăn, gian khổ, truy nguyên nhân
là thiếu vốn, thiếu nhân lực, đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư. Có lần
tôi chứng kiến một già làng được mời ra Thủ đô thăm lãnh đạo Đảng và Chính phủ,
trước khi đi ông tập đi, tập lại cách phát biểu, cách trình bày theo kiểu kêu
khổ, kêu khó, đề nghị Đảng, Nhà nước giúp đỡ từ bữa ăn hàng ngày, quần áo, nước
uống đến con đường, thửa ruộng…Thấy vậy, tôi liền bảo ông, ra Thủ đô, trước hết
phải báo cáo với Đảng, Nhà nước mình và bà con mình đã làm thế nào để phát triển
sản xuất, nâng cao đời sống, sau đó mới trình bày những khó khăn, yêu cầu Đảng,
Nhà nước tiếp tục hỗ trợ, đầu tư, như thế mới đúng. Vào một gia đình ở xã vùng
sâu Tây Nguyên, thấy không có cái chổi quét nhà, hỏi vì sao không có thì bà chủ
nói giọng tỉnh queo: “Cán bộ có cho tiền mình mua chổi đâu?”. Nhà nước đầu tư
không biết bao nhiêu tiền lắp đặt đường điện cao thế xuyên quốc gia, sau đó hạ
thế kéo về tận trung tâm xã. Thế nhưng người dân lại đòi Nhà nước phải tiếp tục
đầu tư kéo điện về từng nhà đồng thời miễn luôn cả tiền điện. Biết được tính ỷ
lại này, các thế lực thù địch dùng thủ đoạn cho một số gia đình ít tiền kéo điện
từ đường dây hạ thế vào nhà, thế là nảy sinh tâm lý mang ơn có tính sai lệch:
“Ơn “chúa” mình mới có điện đó”.
Công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trong phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống tinh
thần cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên báo chí phải đổi mới, không
sáo mòn. Các cơ quan báo chí cần tổ chức cho cán bộ, phóng viên nghiên cứu, học
tập, nắm vững nội dung từng văn bản, đặc biệt là những nội dung liên quan đến
công tác chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện. Cán bộ, phóng viên các cơ quan
báo chí phải đi sâu thực tế, bám sát làng bản, phản ánh kịp thời, trung thực
những vấn đề, những sự kiện có tính thời sự diễn ra trong cuộc sống. Tuyên
truyền về định canh, định cư, xây dựng đồng ruộng, làm thủy lợi, thủy điện phải
gắn với tuyên truyền về bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sinh
thái. Phải tránh tình trạng tuyên truyền thiên về một phía như trước đây chúng
ta tuyên truyền về việc xây dựng các công trình thủy điện, chỉ nói về lợi ích về
việc cung cấp năng lượng, ánh sáng mà quên cảnh báo những hệ lụy sau đó là phá
vỡ môi trường sinh thái, gây lũ lụt, hạn hán, sạt lở núi gây thiệt hại nặng nề
đến sản xuất và đời sống người dân. Tuyên truyền về việc mở rộng diện tích trồng
cao su, cà phê và các loại cây công nghiệp xuất khẩu có giá trị cao khác, ngay
cả việc đưa người dân vào làm việc trong các doanh nghiệp, cần tính tới việc
dành quỹ đất để bà con trồng trọt, chăn nuôi, đảm bảo việc làm và đời sống lâu
dài cho mọi thành viên trong gia đình. Tuyên truyền về các mô hình nông dân sản
xuất giỏi, phải là nhân tố điển hình, cụ thể, phù hợp, có suy nghĩ, cách làm
giúp cho người dân học tập, vận dụng và làm theo được. Tuyên truyền xóa bỏ những
tập tục lạc hậu không chỉ nêu những tác hại của các tập tục lạc hậu đó mà phải
chỉ ra cách khắc phục, hạn chế và chấm dứt các tập tục lạc hậu đó như thế nào,
hiệu quả ra sao. Hiện nay tình trạng hôn nhân cận huyết vẫn còn tồn tại ở một
vài dân tộc thuộc khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, ngoài việc chỉ ra hậu
quả của nó, còn phải chỉ ra cách khắc phục, thiết lập mối quan hệ hôn nhân ngoài
huyết thống giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Duy trì và
phát triển nòi giống của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc có số dân
quá ít là vấn đề phải chú ý. Trong tình hiện nay, cần chú ý tuyên truyền, biểu
dương những điển hình về công tác nắm dân, nắm cơ sở. Bỏ rơi cơ sở, không nắm
vững cơ sở là khuyết điểm phải kiên quyết khắc phục.
Lê Văn Thiềng