Giữ gìn và phát triển: Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2020
02:38 11/03/2013 Lượt xem: 1834 In bài viếtVăn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách nhằm ưu tiên, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các khu vực khác trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia tăng cách biệt, vùng miền núi và dân tộc thiểu số đang còn những khó khăn, thách thức rất lớn, trong đó văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số đang đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế và văn hoá.
Qua nhiều năm thực hiện chính sách văn hoá đối với
vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu nhất định: Nhận thức
của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về văn hóa nói chung, văn hóa dân
tộc thiểu số nói riêng được nâng lên một bước; Đời sống văn hoá cơ sở đã có bước
phát triển, ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đời sống văn hoá tuy còn
thấp so với đô thị và đồng bằng, nhưng đã có những cải thiện rõ rệt; Công tác
giữ gìn, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc, đặc biệt là văn hoá của
các dân tộc thiểu số có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu; Chương
trình mục tiêu quốc gia về văn hoá đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn
hoá tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc. Nhiều dự án lớn
về sưu tầm, tư liệu hoá di sản văn hoá được thực hiện; Việc xây dựng thể chế và
thiết chế văn hoá đã chú ý đến những yêu cầu của thời kỳ mới. Các thiết chế văn
hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được
tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt động bước đầu đã có sự đổi mới, phát
huy được hiệu quả. Ở các làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn… vùng đồng bào dân tộc
thiểu số đã được Nhà nước quan tâm hỗ trợ để xây dựng các Nhà văn hoá, Nhà Rông,
Nhà Gươl văn hoá… làm nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hoá - văn nghệ và
hội họp chung của cộng đồng; Công tác đào tạo đội ngũ những người hoạt động văn
hoá, nghệ thuật vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa được chú trọng
bước đầu; Một số di sản văn hoá của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn
vinh, đặc biệt Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được Tổ chức Văn hoá,
Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hoá phi
vật thể đại diện nhân loại; Tăng cường giao lưu văn hoá qua các hoạt động mang
tính chất vùng, miền góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp
phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực văn hoá ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cấp bách cần khắc phục,
những nhu cầu bức thiết cần phải giải quyết. Đời sống kinh tế- xã hội của các
dân tộc thiểu số rất ít người (dưới 5.000 người và dưới 10.000 người) đều rất
khó khăn so với các dân tộc có số dân đông hơn. Trong đó, vấn đề đặc biệt cấp
bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các tộc người này bị mai một nhanh chóng.
Thậm chí có dân tộc (như người Ơ Đu) ít tìm được các nét văn hóa đặc trưng.
Nhiều chính sách được thực hiện thông qua những dự án, đề án, và chương trình
mục tiêu quốc gia còn chưa thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của văn hóa/chính
sách văn hóa đối với các chính sách cũng như biện pháp phát triển kinh tế- xã
hội ở vùng các dân tộc thiểu số và đối với các dân tộc thiểu số; Sự chênh lệch
về hưởng thụ văn hoá còn lớn: Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây,
vùng biên giới, hải đảo, hoạt động văn hoá còn nghèo nàn, sự chênh lệch về hưởng
thụ văn hoá so với thành thị còn lớn; Đầu tư của Nhà nước cho bảo tồn văn hoá
còn thấp và manh mún, đặc biệt đầu tư bảo tồn và phát triển văn hoá vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do chính sách
khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực; Vai trò của chủ thể, của người dân, của
cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây
dựng dự án cũng như triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở đối
với các dự án nói chung và các chương trình, dự án về văn hoá, ảnh hưởng tới
chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số
Việt Nam; Đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hoá vùng đồng bào dân tộc
thiểu số còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực là người dân
tộc thiểu số. Người có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng
ít dần.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính sách, biện
pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học sinh các dân tộc
thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt trong việc bảo tồn
và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; Di sản văn hoá các dân tộc thiểu số Việt
Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu,
đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng Then của các dân tộc
Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng nghìn làng, bản, buôn…
truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc (kiến trúc, trang
phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền thống, các làn điệu dân ca,
dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến mất theo xu hướng kiên cố hoá,
hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh
chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại.
Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá nhìn chung vẫn ở
tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn thấp. Việc
đưa văn hoá, văn nghệ đến phục vụ đồng bào các dân tộc tuy đã có cố gắng nhưng
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn thiếu
các sản phẩm văn hoá, nhất là các sản phẩm văn hoá có nội dung và hình thức phù
hợp với trình độ và thị hiếu của đồng bào.
Những bất cập trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản và then chốt: Nhận thức
của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của việc bảo tồn, phát triển văn hóa ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa đúng, chưa thật đầy
đủ, chưa thống nhất cao; Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số đã được thể chế hoá, nhưng từ văn bản đến hiện thực vẫn còn
nhiều khoảng cách mà nguyên nhân là thiếu sự tương thích giữa bảo vệ, giữ gìn
với phát huy phát triển. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ chỗ chưa có sự đồng
thuận của những chủ thể văn hóa; Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở miền núi,
vùng dân tộc thiểu số còn rất thiếu, trình độ không đồng đều, nhiều nơi còn rất
yếu, không đáp ứng được yêu cầu công tác trong tình hình mới; Nghiên cứu lý luận
còn thiếu khả năng dự báo và định hướng; chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan
đến văn hoá, đặc biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những giá trị truyền
thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn
hoá và kinh tế… còn lúng túng.
Xu hướng tất yếu trong thời gian tới là các quốc gia ngày càng đề cao tính đặc
thù, bản sắc văn hoá dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản
văn hoá, đấu tranh chống khuynh hướng đồng hoá về văn hoá; đồng thời chọn lọc
tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại. Toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát
triển, vừa là quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia. Bản sắc văn hoá dân
tộc là vấn đề trọng đại, sống còn của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hoá,
văn hoá là một lĩnh vực dễ bị tổn thương, trong đó bản sắc văn hoá, văn hoá
truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, đặc biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số.
Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại sẽ làm phong phú cho văn hoá đất nước, thúc
đẩy văn hoá phát triển.
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trước những đòi hỏi của thực tế, yêu
cầu của xu hướng phát triển, trên cơ sở kế thừa, tích luỹ những bài học về bảo
tồn, phát triển văn hoá dân tộc thiểu số giai đoạn trước, ngày 27 tháng 7 năm
2011, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1270/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo
tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”. Đề án có
đối tượng là các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập trung ưu tiên cho phát triển văn
hoá các dân tộc thiểu số rất ít người, các dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ
và phát huy di sản văn hoá của dân tộc mình. Với địa bàn: Miền núi, dân tộc
thiểu số. Ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải
đảo; những vùng phải di dời để phát triển kinh tế; vùng có nguy cơ cao bị mai
một bản sắc văn hóa; vùng dân tộc trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ).
Địa bàn các dân tộc thiểu số có nguy cơ bị biến dạng văn hóa sẽ được đặc biệt
chú trọng
Đề án đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm: Bảo tồn khẩn cấp văn hoá các dân tộc
thiểu số rất ít người (có số dân dưới 10.000 người), các dân tộc thiểu số tại
các khu vực tái định cư dự án thuỷ điện liên thông, kết nối toàn diện với các
chương trình, dự án có liên quan; Xây dựng đời sống văn hoá và môi trường văn
hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Gắn kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng
đời sống văn hoá với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với từng khu vực,
từng vùng, từng dân tộc, tôn giáo; Chủ thể văn hóa, cộng đồng kế thừa và thực
hành văn hóa có một vai trò to lớn và là nhân tố quyết định trong việc bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số; Coi trọng và
tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học,
nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc
thiểu số; Ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật
biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số, sưu tầm, phục hồi và phát triển một
số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền; Đẩy mạnh các hoạt
động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số kết hợp với các
chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, du lịch
cộng đồng kết hợp với xoá đói, giảm nghèo; Phát triển và hiện đại hoá mạng lưới
thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hoá, thông tin phù
hợp. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả công cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các thiết chế văn hoá cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng
đồng trong tổ chức các hoạt động cộng đồng, phát huy hiệu quả thực sự của các
thiết chế văn hoá; Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hoá cấp địa phương,
vùng, miền và toàn quốc; Xây dựng các chính sách khuyến khích hoạt động nghiên
cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể của
cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam; Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết
chế văn hoá; Đặc biệt là ban hành Bộ chỉ số về phát triển văn hoá các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
Giai đoạn trước mắt từ nay đến năm 2015, Đề án sẽ tập trung vào các nhiệm vụ:
Xây dựng Bộ chỉ số phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm
2020; Tổng kiểm kê các di sản văn hoá tiêu biểu của các dân tộc thiểu số; Hỗ trợ
bảo tồn khẩn cấp văn hóa các dân tộc thiểu số có số dân rất ít người (dưới 5.000
người); Ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ là con em người dân tộc thiểu số làm công
tác văn hoá; Hỗ trợ truyền dạy và phát huy các giá trị văn hoá, nghệ thuật
truyền thống dân tộc của cộng đồng, nghệ nhân; Từng bước phát huy hiệu quả sử
dụng hệ thống các thiết chế văn hoá cơ sở, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho
đồng bào các dân tộc thiểu số; Bước đầu đưa giáo dục văn hóa truyền thống các
dân tộc thiểu số vào các trường học trên địa bàn; Xây dựng cơ chế, chính sách và
giải pháp nâng cao hưởng thụ và hoạt động văn hoá của nhân dân vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Hoàng Anh Tuấn - Thứ Trưởng bộ VHTT&DL