Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay
03:00 11/04/2013 Lượt xem: 367 In bài viếtĐể thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ưu tiên nguồn lực đầu tư cho kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Các Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình giảm nghèo theo Quyết định 20/2007/QĐ-TTg, Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, Nghị quyết trồng mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998, được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định 100/2007/QĐ-TTg... là những chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, nhận được sự quan tâm và đồng thuận cao của cả xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo cho những vùng khó khăn nhất của đất nước.
Kết quả thực hiện các chương trình, dự án, chính
sách của Đảng và Nhà nước đã làm cho diện mạo của khu vực dân tộc thiểu số và
miền núi có những thay đổi đáng kể, góp phần giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo,
phát triển kinh tế xã hội, ổn định cuộc sống; tình hình an ninh chính trị theo
đó cũng ngày càng ổn định... Tuy nhiên, kết quả xóa đói, giảm nghèo ở khu vực
dân tộc thiểu số và miền núi còn chưa bền vững và không đồng đều giữa các vùng,
các nhóm dân cư. Đơn cử: Vùng Tây Bắc – khu vực nghèo nhất cả nước, tỷ lệ hộ
nghèo năm 2009 vẫn là 24%, gấp hơn hai lần tỷ lệ chung của cả nước; Tỷ lệ hộ
nghèo của nhiều tỉnh trong vùng còn cao (Điện Biên là 35,4%, Lai Châu 30,1%, Sơn
La 29%...). Xu hướng phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm dân cư ngày càng gia tăng.
Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại địa bàn vùng cao, vùng
đặc biệt khó khăn giảm chậm, nhiều thôn, bản gần như 100% số hộ vẫn dưới chuẩn
nghèo. Mức độ tiếp cận các chính sách, dự án giảm nghèo của các hộ nghèo dân tộc
thiểu số sinh sống ở vùng cao, vùng sâu như La Hủ, Si La, Mảng, Cống, Kháng, Khơ
Mú, Nùng, Dao, H’Mông... còn quá thấp.
Chỉ thị số 1971/CT-TTg ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
công tác dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã chỉ rõ: Công
tác dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống
chính trị. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc, huy động cao nhất
mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững và ổn định, nâng cao
mức sống của đồng bào vùng dân tộc và miền núi thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập…”.
Vậy đòn bẩy nào sẽ đưa vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta thoát khỏi tình
trạng đói nghèo bền vững, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập vào nền kinh tế thế giới?
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đã xác định 1 trong 3 đột
phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ ”. Đó cũng chính là một trong bảy nhiệm vụ trọng tâm được Đảng ta tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong giai đoạn tới.
Sau nhiều thập niên tập trung sức phát triển tổng thể nguồn nhân lực theo diện
rộng, đến nay trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được
nâng lên đáng kể. Về cơ bản, chúng ta đã thực hiện thành công sự nghiệp xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ
tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lao động nước ta cũng được nâng lên; tiềm lực
và trình độ khoa học - công nghệ trong nước đã có những bước phát triển đáng kể...
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung toàn quốc, thì trình độ khoa học – công nghệ và
chất lượng của lực lượng lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn rất thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Theo số liệu
điều tra Mức sống hộ gia đình năm 2009, thanh niên dân tộc thiểu số – nguồn nhân
lực chủ yếu - từ 15-30 tuổi có khoảng 3,31 triệu, chiếm tỷ lệ trên 82% trong
tổng số thanh niên dân tộc thiểu số nhưng tỷ lệ thanh niên đang tiếp tục đi học
chỉ đạt xấp xỉ 10%; tỷ lệ không biết chữ 13,18%, cao hơn gần 4 lần so với tỷ lệ
chung của lao động thanh niên cả nước (13,18% so với 3,94%); tỷ lệ tốt nghiệp
trung học phổ thông: 14,78%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung cả nước (31,36%).
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của thanh niên dân tộc thiểu số có được cải thiện
song vẫn còn thấp so với mặt bằng chung toàn quốc. Tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo của thanh niên dân tộc thiểu số năm 2009 là 94,69% (trong đó, 30,38% lao
động chưa tốt nghiệp Trung học cơ sở), chỉ giảm hơn 2% so với năm 2004 (96,84%),
trong khi đó, tỷ lệ tương ứng của thanh niên cả nước là 79,13% năm 2009, giảm
gần 9% so với năm 2004 (86,08%).
Thực tiễn này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực thấp chính là rào cản lớn cho
quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở
Việt Nam nói chung và vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số và miền
núi, theo chúng tôi, cần tập trung vào mấy vấn đề sau:
Một là, tập trung thực hiện tốt “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
thời kì 2011-2020”, trong đó chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Chúng ta cần triển khai kế hoạch, biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa
cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ
trong việc khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực cho đúng. Đồng thời,
các địa phương cần có những cơ chế, chính sách sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
cao để thu hút được nhân tài, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” như hiện nay,
đặc biệt là nhân lực công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Cải thiện thông tin về nguồn lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi
người, đặc biệt là đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, thấy được tầm
quan trọng của phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Hàng năm, cần
tổng kết về lý luận và thực tiễn, đánh giá đúng những mặt được và chưa được, kịp
thời rút kinh nghiệm để xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có
về nguồn nhân lực ở Việt Nam cho phù hợp với từng thời điểm.
Hai là, Ủy ban Dân tộc cần chủ trì và phối hợp với các Bộ, Ban, ngành xây dựng
đề án, dự án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số
và miền núi, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong thời gian tới đây.
Ba là, các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần dự báo nhu cầu nguồn
nhân lực; rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển nguồn nhân lực từ
nay đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; đồng thời, sử dụng hiệu quả nguồn Quỹ
Quốc gia và các chương trình, dự án của Chính phủ trong việc đào tạo, sử dụng,
giải quyết việc làm phù hợp với thực tế. Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề,
phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là thanh niên. Thực hiện các chương
trình, biện pháp, chính sách quản trị nguồn nhân lực đồng bộ (chế độ lương bổng,
đãi ngộ, cơ hội thăng tiến…) để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công
tác tại địa phương.
Các doanh nghiệp được hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp trong quá trình khai thác,
phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần có trách nhiệm
hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho thanh niên các dân tộc thiểu số. Các địa phương
phải nhận thức được chi phí đầu tư cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực là chi
phí đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Hiệu quả của đào tạo phải được coi là tiêu chí để đánh giá đầu tư hợp lý chứ
không phải là việc làm tốn ngân sách địa phương. Kiểm tra, đánh giá tình hình
thực hiện nhằm hoạch định nguồn nhân lực, xác định những mặt được, chưa được, từ
đó đề ra biện pháp hoàn thiện.
Vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong việc phát triển kinh
tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi là không thể phủ nhận. Tuy nhiên,
trong những năm qua, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được coi
trọng (chế độ, chính sách đãi ngộ, tôn vinh, sử dụng nhân tài còn tản mạn, lạc
hậu với thực tiễn, không kịp thời...). Vì vậy, đã đến lúc, các địa phương vùng
dân tộc thiểu số và miền núi phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ và hiệu quả
để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội, để
có thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
ThS. Đàm Thị Toan