Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi

03:34 11/04/2013 Lượt xem: 2205 In bài viết

Đề cập đến nguồn nhân lực phải xét đến cả hai góc độ: số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng có vai trò quan trọng hơn bởi thực tế đã cho thấy không phải cứ đông là mạnh. Điều này hoàn toàn đúng với thực trạng nguồn nhân lực vùng miền núi, dân tộc nước ta. Người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi. Lực lượng lao động này tập trung chủ yếu tại 32/51 tỉnh, thành phố, trong đó 12 địa phương vùng Trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm trên 50%. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi ở nước ta hiện còn nhiều yếu kém, thể hiện qua một số số liệu sau:

- Về trình độ học vấn: Ngoài 2 dân tộc Tày và Mường có số người từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, biết viết chiếm tỷ lệ thấp (Tày: 5,1%; Mường: 5,5%); các dân tộc còn lại, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, biết viết tương đối cao: Thái: 18,1%, Khmer: 24,4%, Mông: 54... Đa số người từ 15 tuổi trở lên chỉ có trình độ Tiểu học và Trung học cơ sở.

- Về chuyên môn kỹ thuật:

Số người không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ 86,21% lao động trong độ tuổi. Một số dân tộc có tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo cao: Dân tộc Mông: 98,7%; Khmer 97,7%; Thái 94,6%; Mường 93,3%...

- Về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Ở cấp Hội đồng nhân dân tỉnh, trình độ đại học trở lên chiếm 77,26%; Hội đồng nhân dân huyện 45,63%; Hội đồng nhân dân xã 5,87%; Đội ngũ cán bộ thôn, bản năng lực, trình độ còn thấp hơn nhiều.

Hiện nay, cơ cấu nguồn nhân lực ở nước ta được chia thành 2 loại: trên 15 tuổi và dưới 15 tuổi. Đối với dân tộc thiểu số, nguồn nhân lực từ 15 tuổi trở lên có gần 8,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 69%; dưới 15 tuổi là 31,3%. Cơ cấu này có sự khác biệt so với cơ cấu chung và không nằm trong thực trạng “Cơ cấu dân số vàng” của vùng và cả nước vì tỷ trọng dân số có độ tuổi trên 15 của dân tộc thiểu số thấp hơn và tỷ trọng dân số có độ tuổi dưới 15 cao hơn bình quân chung của cả nước.

Theo ngành nghề sản xuất, lao động vùng miền núi, dân tộc tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Tại 2 vùng có số lượng và tỷ lệ dân tộc thiểu số cao nhất nước là Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, lao động dân tộc thiểu số tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm tới trên 70%; lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại chỉ có tỷ lệ nhỏ tham gia. Cơ cấu này có sự cách biệt rất xa so với cả nước (cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp và thương mại-dịch vụ của cả nước là 51,9%, 21,5% và 26,5%).

Cơ cấu nghề nghiệp cũng cho thấy lao động của vùng dân tộc và miền núi chủ yếu tham gia vào nghề nông và các nghề đơn giản; các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và trung bình, số lao động tham gia hầu như rất ít. Tại vùng miền núi và Trung du phía Bắc có đến 78,44% dân số từ 15 tuổi trở lên đang làm nghề nông và các ngành nghề đơn giản; vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, tỷ lệ này là 64,81%; Tây Nguyên là 76,33 đãphần nào phản ánh thực trạng về trình độ và năng lực của lao động vùng dân tộc, miền núi hiện nay.

Những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tác động trực tiếp và gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi. Về trực tiếp, đó là các chính sách: cấp thẻ bảo hiểm miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số; chương trình phòng, chống sốt rét; phòng chống bướu cổ; HIV/AIDS; tiêm chủng mở rộng; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng; chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo đi học tại các xã đặc biệt khó khăn; chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên; đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg; chương trình dân số-kế hoạch hóa gia đình. Về gián tiếp, một số chính sách có tác động đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi là: Dự án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và cộng đồng bằng nguồn vốn của Chương trình 135 giai đoạn II; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo với các hoạt động như: tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề miễn phí cho lao động nghèo, miễn giảm học phí, hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết cho học sinh nghèo; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyện nghèo với các hoạt động: đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, ngoại ngữ để đưa người đi xuất khẩu lao động…

Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền núi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào một cách bền vững. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, cần thời gian dài nên phải được xác định là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, với nguồn lực đầu tư đảm bảo từ ngân sách nhà nước kết hợp với sức mạnh của cộng đồng, cùng ý thức tự lực vươn lên của đồng bào các dân tộc.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng miền núi, dân tộc cần phải thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ: Đào tạo sau đại học; đại học; cao đẳng; trung cấp chuyên nghiệp; xóa mù chữ; đào tạo nghề ngắn hạn; đào tạo nghề trình độ sơ cấp cho các hộ nghèo về kỹ thuật, khoa học công nghệ phục vụ phát triển sản xuất, kiến thức phát triển kinh tế hộ gia đình; đào tạo nghề phi nông nghiệp và trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề cho thanh niên; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế-xã hội theo chức danh, vị trí làm việc đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho cán bộ, công chức xã đạt chuẩn theo quy định...

Thực hiện những nhiệm vụ trên cần có hệ thống chính sách đi kèm trên cơ sở kế thừa và phát huy những chính sách đã có, đồng thời sửa đổi, bổ sung những chính sách đã lạc hậu cho phù hợp với tình hình hiện nay. Trước hết, từng địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngắn hạn, trung hạn và dài hạn làm căn cứ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm và 5 năm; lồng ghép các chính sách hiện hành để tập trung nguồn lực cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi; tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi.

Trong các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng miền núi, dân tộc đảm bảo tính bền vững thì giải pháp về giáo dục-đào tạo có ý nghĩa quyết định. Cần tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho hệ thống giáo dục đào tạo từ mầm non đến đại học, đặc biệt là xây dựng trường nội trú liên thông, trường bán trú dân nuôi; phát triển hệ thống trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề gắn với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu sử dụng lao động; thành lập khoa dự bị đại học tại các trường đại học để bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho học sinh vùng dân tộc và miền núi trước khi học các chuyên ngành đào tạo bậc đại học; mở rộng phạm vi, đối tượng thụ hưởng chính sách cử tuyển ra cả vùng I, vùng II, ưu tiên cho các dân tộc có dân số ít; có cơ chế gắn trách nhiệm của địa phương trong việc lựa chọn đối tượng và ngành học cử tuyển với việc bố trí, sử dụng sinh viên cử tuyển sau khi tốt nghiệp về công tác tại địa phương; thực hiện phân luồng học sinh phổ thông dân tộc nội trú. Đối với những học sinh có năng khiếu, chuẩn bị cho bước chuyển tiếp vào học các trường năng khiếu chuyên biệt. Đối với những học sinh có trí tuệ tốt, sau khi tốt nghiệp cho chuyển sang học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú chuẩn bị lâu dài cho đào tạo trí thức và đào tạo nhân tài dân tộc thiểu số. Những học sinh hạn chế về năng lực, trình độ, cần định hướng giáo dục nghề nghiệp tốt, chuẩn bị cho chuyển sang hệ giáo dục nghề nghiệp, giúp các em có điều kiện tìm việc làm hoặc đủ kiến thức trở về tổ chức sản xuất tại gia đình.

Lao động vùng miền núi, dân tộc chủ yếu làm nghề nông truyền thống với ruộng đất manh mún, tư liệu giản đơn, sản xuất nặng về khai thác tự nhiên và dựa vào kinh nghiệm là chính với mục tiêu tự làm ra sản phẩm để đảm bảo cuộc sống. Do vậy, cần tích cực xây dựng, củng cố và sử dụng đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm làm cầu nối chuyển giao khoa học công nghệ cho nông dân vùng miền núi, dân tộc, góp phần nâng cao nhận thức, trình độ sản xuất cho đồng bào.

Đẩy mạnh thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo lộ trình đã được Chính phủ phê duyệt vì đây là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn vùng miền núi, dân tộc và tạo điều kiện cho bà con có thêm việc làm, tăng thu nhập lúc nông nhàn hoặc chuyển đổi ngành nghề sản xuất ngay tại quê hương. Có chính sách học bổng và trợ cấp cho người dân tộc thiểu số học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng; đồng thời phát triển hệ thống trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề gắn với quy hoạch phát triển nhân lực và nhu cầu sử dụng lao động của các địa phương.

Nguyễn Quang Hải - Trần Phương Liên