Bảo tồn nét đẹp bản Mậu
09:58 25/03/2013 Lượt xem: 1426 In bài viếtBản Mậu có đến 97% là đồng bào Dao sinh sống, tương truyền đồng bào đã định cư từ thế kỷ 15. Chuyện kể rằng, năm Phật Hoàng quyết ý xuống tóc lên Yên Sơn xuất gia lập lên thiền phái Trúc Lâm, văn võ bá quan nhà Trần có nhiều người không thuận. Họ lên núi tìm đến nhà vua thuyết phục ngài về triều và họ đưa lên núi cả những cung tần, mỹ nữ trong cung, những phi tần xinh đẹp được vua yêu chiều nhất. Thế nhưng, tất cả đều không khiến nhà vua chạnh lòng.
Biết không thể lay chuyển được ý chí của nhà vua,
các phi tần đành xuống núi. Có người tìm đường về quê, cũng có người tìm đến các
ngôi chùa gần vùng Yên Tử xuất gia tu hành. Cũng có người ở lại dọc các con
đường dưới chân Yên Sơn lấy chồng, sinh con, lập nghiệp ở các làng bản dưới chân
núi như hiện nay. Trải qua bao năm tháng, những phi tần năm xưa còn lưu lại hậu
thế những cô gái “xinh như ngọc ngà, da mịn như nhung, môi hồng như hoa và cũng
rất giỏi giang, đảm đang” nơi bản làng hoang sơ này.
Cũng có truyền thuyết khác về việc con gái bản Mậu xinh đẹp từ trong trứng nước.
Người già ở đây truyền lại chuyện người xưa kể về Giếng Tiên, cái giếng nước
quanh năm đầy ắp, trong vắt và giúp cho cô gái da trắng, tóc đen, môi đỏ. Ông
Trịnh Tiến Hồng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tuấn Mậu, người đưa chúng tôi đi thăm
vùng đất truyền thuyết kể rằng con gái ở bản Mậu sinh ra được tắm nước Giếng
Tiên từ bé nên mới đẹp thế.
Cái “sự đẹp” của con gái bản Mậu được kiểm chứng và thừa nhận trong các cuộc thi
sắc đẹp. Đó là chị Bàn Thị Giảng, đoạt giải người đẹp các tỉnh miền núi phía Bắc
những năm 90 thế kỷ trước; đó là Trịnh Thu Hương, đứng trong Top 10 người đẹp
dân tộc năm 2007…
Nằm trên cung đường tâm linh, trong đề án phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang,
điểm bắt đầu từ Thiền Viện Phượng Hoàng, chùa La (Vĩnh Nghiêm tự) đến điểm cuối
ngay dưới chân chùa Đồng (Tây Yên Tử) thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang. Dự án đang
thi công lộ tỉnh 293 chạy qua những điểm du lịch nổi tiếng ở sườn Tây Yên Tử sẽ
mang lại triển vọng kinh tế khá rõ nét. Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch xã Tuấn
Mậu cho biết xã có 507 hộ dân, trong đó hơn 70% là đồng bào dân tộc thiểu số,
vốn được tách ra từ xã Thanh Sơn nên cơ bản Tuấn Mậu còn nhiều khó khăn, nhất là
cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Đời sống của đồng bào còn rất khó khăn
với 58,8% hộ nghèo. Nghề chính là làm nông nghiệp, một bộ phận tham gia trồng và
bảo vệ rừng; một số hộ làm nghề dịch vụ. Xã có hơn 700 cháu đang ở độ tuổi đi
học nhưng mới chỉ có 245 cháu bậc mầm non và Tiểu học được học tại xã. Số học
sinh còn lại phải học “nhờ” trường tại thị trấn Thanh Sơn hoặc ra An Châu cách
hơn hai chục cây số. Đây là một trong những khó khăn không dễ khắc phục trong
thời gian ngắn.
Chương trình hành động của Đảng bộ xã trong những năm tới là hoạt động văn hoá -
du lịch nên Tuấn Mậu xác định mục tiêu bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá là
trọng tâm. Theo ông Nguyễn Văn Sơn, trước hết xã xây dựng và quảng bá văn hoá
của đồng bào dân tộc Dao bản địa. Đây là dân tộc “đa số” của xã, có cuộc sống
khá ổn định và hầu hết những bản sắc văn hoá vẫn được bảo lưu giữ gìn. Ngoài hệ
thống tiếng nói và chữ viết, những phong tục của đồng bào như các lễ, hội; nghề
làm thuốc nam truyền thống; dệt và may trang phục dân tộc… đều nằm trong chương
trình này. Định hướng “đi tắt, đón đầu” vệt du lịch cũng bắt đầu được khởi động
bằng các đề án khôi phục khu du lịch sinh thái Đồng Thông, thác Ba Tia, Giếng
Tiên, gò Đá Nứng… trên địa bàn. Riêng bản Mậu, khai thác lợi thế “làng mỹ nhân”
một cách tối đa với việc thành lập đội văn nghệ của bản. Theo đó, đội sẽ có
khoảng 20 thành viên, lĩnh vực hoạt động chính là ca múa dân tộc, bên cạnh đó
đội cũng tham gia các hoạt động quảng bá du lịch cho địa phương. Bản cũng đã đề
xuất cấp trên cho kinh phí xây dựng nhà văn hoá và thường xuyên tổ chức các hoạt
động văn hoá, văn nghệ, kể cả các hoạt động tâm linh như: nghi lễ cầu an cho
làng, hội làng, lễ cấp sắc, lễ cũng trong ma chay, cưới hỏi... Về hoạt động này,
bản có một mo trưởng là ông Triệu Tiến Linh sẽ chịu trách nhiệm chính về thực
hiện các hoạt động đó của bản.
Tuy nhiên, cũng như đại đa số người dân trong xã, đời sống của người dân bản Mậu
còn nhiều khó khăn. Cả bản có 110 hộ thì có 60 hộ nghèo. Đến bản Mậu, chủ yếu
chỉ thấy các cụ ông, cụ bà sức khoẻ yếu ở nhà còn hầu hết nam thanh niên cũng
thoát ly đi làm ăn xa chỉ dịp lễ, tết mới về, chẳng còn mấy ai mặn mà ở lại chốn
sơn lâm heo hút này. Ngoài ra, sự “xâm lấn” của lối sống hiện đại, của văn hoá
mạng cũng dần bào mòn những tiềm thức văn hoá bản địa. Đây là một khó khăn trong
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của bà con trong bản. Để có thể
khai thác được giá trị văn hoá phục vụ du lịch, không thể chỉ dựa vào cộng đồng
và ý thức tự tôn dân tộc của đồng bào mà phải có sự chung tay của các cấp chính
quyền cũng như ngành văn hoá.
Nghiêm Huệ