Huồi Thợ. Bản vui lưng núi

01:41 02/08/2013 Lượt xem: 54406 In bài viết

Trước đây, đường từ Quốc lộ 7A lên bản Huồi Thợ dốc đứng và khúc khuỷu, chênh vênh theo sườn núi nên chỉ có cách đi bộ. Những tay lái đường trường dạn dày kinh nghiệm mới đủ can đảm cho xe máy leo dốc.

Thực hiện Chương trình Xây dựng Nông thôn mới, nay, con đường được đầu tư rải bê tông nên việc đi lại đã trở nên khá dễ dàng, chưa đầy 10 phút, xe máy của chúng tôi đã leo lên được trung tâm bản. Từ đây có thể ngắm dòng Nậm Mộ đang uốn lượn giữa non ngàn và Quốc lộ 7A chạy men theo chân núi. Chúng tôi đến Huồi Thợ đúng vào dịp bà con Khơ mú nơi đây tổ chức lễ mừng cơm mới. Sau cái bắt tay thật chặt, Trưởng bản Xeo Văn Dung niềm nở: “Lễ mừng cơm mới năm nay thay đổi rồi, không tổ chức từng nhà như trước nữa vừa tốn kém, lại mất nhiều thời gian. Năm nay, bản chủ trương sau khi cúng ở từng nhà, bà con sẽ cùng ra chung vui tại nhà văn hóa, vừa tiết kiệm lại vui hơn nhiều”. Lúc này, 5 vò rượu cần đã được đặt giữa sân, mọi người đang ngồi vây quanh để cùng thưởng thức. Chúng tôi cảm nhận được hương vị của nếp rẫy, lá cây rừng và cả sự kỳ công của những người phụ nữ Khơ mú. Hai giàn cồng chiêng đặt sẵn dưới hiên nhà văn hóa vang lên rộn ràng, âm thanh và nhịp điệu vô cùng quyến rũ; già trẻ, gái trai bắt đầu hòa chung điệu lăm tơi nhịp nhàng, uyển chuyển. Nhấp thêm sừng rượu cần, khi men rượu đã thấm, già làng Lương Văn Bình ghé tai tôi và nói: “Điệu múa lăm tơi là đặc trưng của người Khơ mú, nó mô phỏng những động tác trèo đèo, lội suối, phát rẫy, hái lúa, tỉa ngô. Ở đây ai cũng múa đẹp, vì không biết múa lăm tơi không phải là người Khơ mú”.

Không biết có phải do có khách dưới xuôi lên thăm hay không mà các cụ già ở Huồi Thợ đều về nhà đem ra các loại sáo, pí và các loại nhạc cụ khác để cùng hòa âm với 2 dàn cồng chiêng. Già Bình chỉ tên và giới thiệu với khách từng loại nhạc cụ, nào sáo ngang, pí tơm, tót tông, đao đao, rồi khèn môi, khèn lá. Điều đáng nói là hầu hết các loại nhạc cụ này được chế tác một cách khá đơn giản. Từ những cây nứa, cây luồng, thậm chí là những chiếc lá, qua đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống của những người đàn ông Khơ mú đã làm nên những giai điệu lúc rộn ràng, khi sâu lắng. Bản hòa âm ấy nghe như có tiếng suối reo, tiếng gió đại ngàn, tiếng chim rừng gọi bạn và cả tiếng bước chân ngập ngừng. Đó chính là “điệu hồn”, là tiếng lòng của người Khơ mú, một dân tộc còn gặp không ít khó khăn trên bước đường phát triển nhưng tâm hồn luôn tươi vui và tràn ngập niềm tin.

Gặp lại bà Moong Thị Lợi- nghệ nhân hát Tơm của Đoàn Nghệ thuật Quần chúng huyện Kỳ Sơn tại các kỳ liên hoan văn hóa - văn nghệ những năm gần đây. Tuy đã hơn 70 tuổi, nhưng chất giọng của bà vẫn mượt mà và có thể hát Tơm liên tục 30 phút. Bà cho biết: Tơm là làn điệu dân ca cổ truyền của dân tộc Khơ mú, kể về những sinh hoạt đời thường của gia đình và cộng đồng làng bản. Nhân dịp này, bà hát tặng khách bài “Huồi Thợ ngày vui”. Lúc bà Lợi hát Tơm, cả bản say sưa lắng nghe. Khi bà kết thúc điệu Tơm, mọi người vỗ tay rồi nâng ly rượu mừng nghệ nhân của bản. Được biết, bà Lợi là người hát Tơm hay nhất Huồi Thợ, mỗi khi rảnh rỗi, bà vẫn thường truyền dạy cho con cháu trong bản. Con gái đầu của bà - chị Cụt Thị Nhung là người đã kế thừa được chất giọng và sự dẻo dai của mẹ.

Chúng tôi ghé thăm một số gia đình ở Huồi Thợ. Nơi đây, nghề đan lát vẫn được duy trì. Từ lâu, người Khơ mú đã được công nhận là giỏi nghề đan lát thủ công. Những sản phẩm như: ghế mây, mâm mây và ép xôi ở Huồi Thợ đã nói lên điều đó. Các mặt hàng này giờ khá “chạy”, theo như lời ông Cụt Văn Khâm thì “làm xong cái nào bán hết cái đó”. Đây chính là cơ hội để bà con Huồi Thợ bảo tồn được nghề thủ công truyền thống, đồng thời tăng thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống, giải quyết việc làm cho người cao tuổi.

Trong bữa cơm, Trưởng bản Xeo Văn Dung cho biết: “Bản mình được huyện chọn làm điểm xây dựng làng văn hóa dân tộc Khơ mú nên được tạo điều kiện rất nhiều. Được cấp kinh phí mở lớp truyền dạy dân ca, nhạc cụ dân tộc; được đầu tư xây dựng nhà văn hóa trị giá hơn 1 tỷ đồng để lưu giữ những hiện vật đặc trưng của dân tộc”.

Được biết việc triển khai thực hiện công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa ở Huồi Thợ đang còn gặp không ít khó khăn. Chẳng hạn, hiện nay những người biết rõ các làn điệu dân ca, cách chế tác và sử dụng các loại nhạc cụ không còn nhiều, hầu hết tuổi đã cao. Trong khi đó, một bộ phận lớp trẻ lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố văn hóa khác nên chưa ý thức được tầm quan trọng của văn hóa cổ truyền. Trước thực trạng đó, tỉnh Nghệ An cần có những giải pháp cụ thể, thiết thực để làm tốt công tác lưu giữ, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở địa phương.

Tường Anh

[TT: PLN]