Xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong tình hình mới
09:09 11/04/2013 Lượt xem: 383 In bài viếtViệt nam là một quốc gia thống nhất, có 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với dân số 12.250.436 người, chiếm khoảng 14,3% dân số cả nước. Đồng bào cư trú chủ yếu ở 52 tỉnh, thành phố. Vùng dân tộc, miền núi chiếm ¾ diện tích tự nhiên, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, kế thừa truyền thống đoàn kết,
yêu nước của ông cha ta, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
công tác dân tộc, chính sách dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách dân tộc:
BÌNH ĐẲNG, ĐOÀN KẾT, TÔN TRỌNG, GIÚP NHAU CÙNG PHÁT TRIỂN, đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hộị vùng dân tộc, có
thể chia các chính sách đó thành 3 nhóm:
- Nhóm chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế vùng được thực hiện
trên cơ sở phân định trình độ phát triển của 3 khu vực vùng dân tộc, miền núi,
như: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương
trình 135); Chương trình Xây dựng Trung tâm cụm xã; Chương trình Định canh định
cư; các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, vùng miền
núi phía Bắc và vùng Tây Nam Bộ.
- Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo ngành, lĩnh vực; tập trung
chủ yếu hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển sản xuất, nâng cao năng lực,
chuyển giao công nghệ; chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, khuyến
nông, khuyến lâm, định canh định cư. Chính sách ưu đãi đối với cán bộ quản lý và
nhà giáo công tác ở vùng dân tộc; hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số; kiên cố hóa
trường học; cử tuyển và dự bị đại học dân tộc. Chính sách y tế chăm sóc sức khoẻ
cho đồng bào, cấp thẻ bảo hiểm y tế, phát triển hệ thống y tế thôn bản, y tế dự
phòng. Có đề án bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số. Tập trung
đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, ưu đãi cho cán bộ về công tác
tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
- Nhóm chính sách đặc thù đối với một số dân tộc thiểu số rất ít người. Ngoài
những chính sách đầu tư, hỗ trợ theo vùng, các chính sách, dự án hỗ trợ phát
triển một số dân tộc có số dân dưới 1.000 người bao gồm 5 dân tộc (Si La, Pu Péo,
Ơ Đu, Brâu, Rơmăm); hỗ trợ 4 dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao; các dân tộc có
số dân dưới 10.000 người cũng sẽ được thực hiện. Đây là nhóm chính sách đặc thù
cho các dân tộc có điều kiện đặc biệt khó khăn, để các dân tộc này thoát khỏi
nguy cơ đói nghèo và lạc hậu.
Nhờ các chính sách đúng đắn đó, tình hình vùng dân tộc, miền núi đã từng bước
phát triển khá toàn diện.
- Về kinh tế - xã hội: Kinh tế địa bàn dân tộc, miền núi đã có tốc độ tăng
trưởng cao hơn mức bình quân của cả nước . Mạng lưới giao thông đến trung tâm xã
được cứng hóa hoặc nhựạ hóa 86,4%; hơn 90% số xã được sử dụng điện lưới quốc gia;
giảm tỷ lệ hộ nghèo của các xã đặc biệt khó khăn từ 47% năm 2006 xuống 28,8% năm
2010 (bình quân giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3 - 4%/năm), thu nhập bình quân đầu người
tăng từ 2,17 triệu đồng/người năm 2005 lên 4,2 triệu đồng/người năm 2010. Những
kết quả trong công tác xóa đói, giảm nghèo địa bàn dân tộc, miền núi là đáng
khích lệ được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
- Về văn hóa - xã hội: đã phủ sóng phát thanh trên 90% địa bàn, 70% người dân
được nghe đài phát thanh, trên 70% địa bàn được phủ sóng truyền hình; 100% các
xã có trường tiểu học, trạm y tế; các hoạt động lễ hội văn hóa, thể thao được
duy trì, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết giữa các dân tộc; những
giá trị văn hóa của các tộc người được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các xã
đều có trường tiểu học được xây dựng kiên cố, 90% trẻ em trong độ tuổi được đến
trường; giảm tỷ lệ người lớn mù chữ riêng ở địa bàn các xã đặc biệt khó khăn từ
trên 10% năm 2006 xuống dưới 5% năm 2010; cơ cấu lao động thay đổi theo hướng
tăng lao động ở các ngành phi nông nghiệp. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
được chú trọng, mạng lưới y tế phát triển đến tận các xã, đồng bào dân tộc được
cấp thẻ bảo hiểm y tế không thu tiền, được tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản. Đến
nay đã kiểm soát, khống chế được các dịch bệnh thông thường.
- Hệ thống chính trị cơ sở đã từng bước được củng cố, đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong tổng số 500 đại biểu
Quốc hội khóa XIII có 78 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 29
dân tộc khác nhau, đến từ 26 tỉnh, thành phố, chiếm tỷ lệ 15,6%. Đại biểu là
người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 – 2016
là 688 người, chiếm 18%, cấp huyện là 4237 người, chiếm 20,1%, cấp xã là 62383
người, chiếm 22,46%. Nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của địa phương là người dân
tộc thiểu số.
- Quốc phòng, an ninh ở địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi được củng cố tăng
cường; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố, đồng bào các dân
tộc gắn bó, tin tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước;
Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ nhất từ Trung ương đến
địa phương là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn dân, khẳng định chính
sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết các
dân tộc, nâng cao niềm tự hào, tin tưởng của đồng bào các dân tộc thiểu số vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào tương lai tươi sáng của đất nước. Chính
phủ đã ban hành nghị định về công tác dân tộc, khẳng định bằng văn bản có tính
pháp lý về vị trí, tiềm năng, các chính sách phát triển kinh tế xã hội, nội dung
công tác dân tộc, trách nhiệm của của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, của Ủy ban Dân
tộc, của Ủy ban nhân dân các cấp và đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trật Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên phối hợp với Ủy ban Dân tộc, các Bộ, ngành
liên quan giám sát, tuyên truyền, vận động thực hiện công tác dân tộc, chính
sách dân tộc.
Tuy đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trên đây nhưng tình hình vùng dân
tộc miền núi cũng đang đặt ra nhiều vấn đề rất bức xúc phải giải quyết để không
ngừng tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.
Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn: Khoảng cách chênh lệch về thu nhập và đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi so với vùng đồng bằng ngày càng gia
tăng; vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là vùng nghèo nhất của cả nước với
tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới là 26,4%, ở những khu vực đặc biệt khó khăn lên đến
55% trong khi tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,20%; tình trạng thiếu nước sinh
hoạt, đất sản xuất còn nhiều (hiện còn 223.176 hộ thiếu đất sản xuất). Theo số
liệu điều tra mức sống, khoảng cách thu nhập giữa 20% hộ nghèo nhất ( chủ yếu là
đồng bào dân tộc thiểu số) và 20% hộ giàu nhất đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2004
chênh lệch ở các tỉnh miền núi phía Bắc là 5,22 lần, các tỉnh Tây Nguyên là 10,9
lần. Đến năm 2010 tỷ lệ này đã tăng lên 6,8 lần ở các tỉnh miền núi phía Bắc và
12,9 lần ở Tây nguyên.
Nguồn nhân lực thấp kém: lao động chưa qua đào tạo: 86,21%, có những dân tộc tỷ
lệ chưa qua đào tạo rất cao, dân tộc Mông: 98,7%, Khmer: 97,7%, Thái: 94,6% ).
Lao động đã qua đào tạo chủ yếu là ở trình độ thấp sơ cấp 2,54%, trung cấp 4,8%,
cao đẳng 1,43%, đại học 4,8%. Một số dân tộc có tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại
học rất thấp: Thái 1,6%, Khmer 1%, Mông 0,3%, các dân tộc thiểu số khác trung
bình 1,5%.
Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư thông qua các Chương trình, nhưng do địa bàn đầu tư
rộng, địa hình chia cắt, phức tạp, nguồn vốn đầu tư ít, phân tán ,thiên tai,
nhất là lũ ống, lũ quét hàng năm đã phá hoại rất nghiêm trọng, nên kết cấu hạ
tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống.
Văn hóa của một số dân tộc đang bị mai một, mất dần bản sắc; tình trạng pha tạp,
biến thái trong các hoạt động văn hóa, lối sống , ngày càng bộc lộ rõ nét; mức
độ hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số rất thấp, tệ nạn xã hội diễn
biến phức tạp.
Hệ thống hệ thống chính trị ở cơ sở địa bàn dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu
kém; số lượng cán bộ chủ chốt người dân tộc thiểu số còn ít, trình độ cán bộ còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo, quản lý xã hội và xử lý các tình
huống xảy ra.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi nhất là các vùng biên giới còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định.
Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh nhiều hoạt động nhằm lôi kéo, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc.
Để khắc phục các hạn chế yếu kém trên đây, nhằm không ngừng củng cố và tăng
cường đoàn kết các dân tộc trong điều kiện quốc tế và trong nước hiện nay, Đảng
và nhà nước ta kiên trì, nhất quán thực hiện chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đảm bảo ổn định, phát triển và hội
nhập; Phát triển toàn diện kinh - tế xã hội, ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng,
giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực, hình thành các trung tâm kinh tế, vùng
động lực phát triển; Đầu tư phát triển đi đôi với thực hiện chính sách an sinh
xã hội, giải quyết hài hòa lợi ích, Phát triển vùng dân tộc và miền núi bền
vững, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng đất nước; huy động
mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số, trong
đó ngân sách nhà nước là chủ yếu; Công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị.
Sự nghiệp xây dựng ,củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc phải nhằm mục tiêu:
Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi toàn diện, nhanh,
bền vững; đẩy mạnh giảm nghèo; rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc,
các vùng; giảm dần vùng đặc biệt khó khăn; hình thành các trung tâm kinh tế, văn
hóa, khoa học, vùng động lực; phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc, tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
là người dân tộc thiểu số; củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đảm bảo vững chắc
an ninh, quốc phòng.
Phấn đấu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người ở vùng dân tộc, miền núi
tăng lên gấp 4 lần; tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 50%; giải quyết cơ bản
tình trạng thiếu đất, nước sinh hoạt. Đảm bảo 100% đường trục xã, liên xã được
nhựa hóa, bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật; trên 50% đường trục thôn, xóm
được cứng hóa ; trên 95% hộ sử dụng điện thường xuyên; các xã có điểm phục vụ
bưu chính, viễn thông; internet đến hầu hết các thôn, bản.
Giảm nghèo bình quân hàng năm đạt 4% , trên 70% nhà ở đạt tiêu chuẩn.100% có
trường học kiên cố, nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá học sinh; 95% trẻ em
trong độ tuổi được đến trường, phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục trung học
phổ thông; số sinh viên đạt 300 trên một vạn dân; lao động qua đào tạo đạt trên
50%, trong đó 20% được đào tạo nghề.Tổng tỷ suất sinh 2,0 con/phụ nữ; tuổi thọ
bình quân đạt 70 tuổi; 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia và có bác sĩ làm việc;
đưa việc khám chữa bệnh dùng thẻ bảo hiểm y tế về rộng khắp các thôn, bản; chỉ
số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình của cả nước.
Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán tiến bộ; 100% hộ gia
đình được xem truyền hình; hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo có
nhu cầu được cung cấp thiết bị thu các kênh phát thanh, truyền hình kỹ thuật số
với giá cả phù hợp; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể
chất, tinh thần, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Đưa tỷ lệ che phủ rừng lên
trên 55%.
Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số tại chỗ. 100% cán
bộ công chức cấp xã được đào tạo, trong đó 70% có trình độ từ cao đẳng, đại học
trở lên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ thống chính trị, nhất là cấp cơ sở xã,
phường, thôn, bản. Củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, đảm bảo an ninh nông
thôn, ổn định xã hội, góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc.
Để hoàn thành các mục tiêu đó phải làm tốt các nhiệm vụ và giải pháp sau:
1- Phải làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trước hết là cán bộ trong
các cơ quan nghiên cứu chiến lược nhận thức lại vị trí, tiềm năng, chính sách
dân tộc của Đảng và nhà nước, tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Đối với vùng dân tộc thiểu số phải xác định đầu tư phát triển chứ không phải
chỉ là hỗ trợ giảm nghèo. Lối tư duy cho rằng do đất nước còn nghèo nên phải đầu
tư vào các vùng trọng điểm kinh tế, ở vùng dân tộc thiểu số do điều kiện tự
nhiên quá khó khăn, nên suất đầu tư quá cao, hiệu quả kinh tế thấp, do đó chủ
yếu là hỗ trợ giảm nghèo. Với lối tư duy đó thì vùng dân tộc thiểu số không bao
giờ theo kịp được mặt bằng trung bình của cả nước, chứ chưa nói đến phát triển
khá, phải xoay chuyển nhận thức để thấy việc đầu tư phát triển vùng dân tộc là
đầu tư dài hạn, đầu tư để đảm bảo cả yếu tố chính trị, an ninh, quốc phòng,
không chỉ tính hiệu quả kinh tế đơn thuần. Từ đó tập trung đủ nguồn lực để khai
thác các tiềm năng, thế mạnh về năng lượng, khai thác và chế biến khoáng sản,
nông, lâm sản, cây, con ngành nghề truyền thống; hình thành các trung tâm chế
biến công nghiệp gắn với đô thị hóa, đó chính là các cụm động lực thúc đẩy vùng
đồng bào dân tộc phát triển nhanh và bền vững, để đồng bào có thể phát triển
vững chắc trên chính đôi chân của mình.
- Thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của cả hệ thống chính trị, của tất cả các dân tộc nhưng vai trò của dân tộc chủ
thể là rất quan trọng. Phải thấy rằng ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc chủ thể
cũng phải chăm lo giải quyết vấn đề dân tộc, không phải chỉ là trách nhiệm là
lòng nhân ái, mà trước hết xuất phát từ sự tồn vong của quốc gia, của Đảng và
chế độ. Nhìn thấy trước những yêu cầu này cho nên Bác Hồ luôn nhắc nhở phải
thương yêu thật lòng đồng bào các dân tộc thiểu số, dân tộc lớn phải khắc phục
bệnh kiêu ngạo, cán bộ nhân dân người địa phương phải khắc phục tự ti; đoàn kết
là mục tiêu thật sự chứ không phải là phương pháp, phương tiện nhất thời, mị
dân.
Phải khắc phục ngay những nhận thức sai lệch, thậm chí là định kiến đối với vùng
dân tộc, chẳng hạn nhiều người cứ cho đồng bào dân tộc là thấp kém, lạc hậu; đất
đai mênh mông nhưng do lười nhác mà cứ nghèo nàn mãi; rượu chè bê tha, sinh đẻ
nhiều, là chặt phá rừng, di dịch cư tự do…
- Huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển nhưng đối với vùng dân tộc thiểu
số phải xác định nguồn lực đầu tư của nhà nước là chủ yếu. Ở những vùng có các
điều kiện để huy động vốn từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài,
thì thực hiện xã hội hóa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển dưới các hình thức
BOT, BT… còn nguồn vốn từ ngân sách nhà nước phải ưu tiên cho vùng dân tộc, miền
núi.
- Đầu tư khai thác các tiềm năng thế mạnh ở vùng dân tộc thiểu số phải gắn đảm
bảo an sinh xã hội, ổn định dân cư, sinh kế bền vững, kết hợp xây dựng thế trận
bảo vệ biên giới, xây dựng khu vực phòng thủ bảo vệ tổ quốc.
- Trước một số hoạt động sai trái trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần thận
trọng phân tích kỹ nguyên nhân, có cách nhìn toàn diện, chia sẻ khó khăn và
những nguyện vọng chính đáng của đồng bào, tuyệt đối không được kỳ thị đồng bào;
phải có quan điểm nhân văn nhận thức rõ đồng bào là của mình, là một bộ phận
không thể tách rời của tổ quốc; không để kẻ địch lôi kéo dân của mình. Chúng ta
phải làm cho đồng bào hiểu một quốc gia có nhiều dân tộc cư trú, một dân tộc cư
trú ở nhiều quốc gia là điều đang diễn ra bình thường trên thế giới. không thể
đòi hỏi mỗi dân tộc lại có lãnh thổ riêng, rồi dẫn đến các hành động quá khích,
vi phạm luật pháp; phải làm cho đồng bào hiểu tổ quốc Việt Nam là tổ quốc, là
lãnh thổ của cả cộng đồng 54 dân tộc anh em.
2- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nhanh kết cấu hạ tầng
kinh tế; hình thành vùng sản xuất chuyên canh gắn chế biến, tiêu thụ sản phẩm;
Đảm bảo giao thông kết nối vùng, điện thắp sáng, các công trình nước sạch,
trường học, trạm y tế, chợ. Phát triển hạ tầng truyền dẫn phát sóng đồng bộ, các
dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông và công nghệ thông tin. Triển khai
có hiệu quả chương trình đào tạo nghề và xuất khẩu lao động. Tập trung đầu tư
phát triển ở các địa bàn đặc biệt khó khăn. Những địa bàn quá khó khăn, không
thể sản xuất lương thực được, Nhà nước nên có chính sách cấp lương thực và các
nhu yếu phẩm cần thiết để người dân yên tâm giữ gìn tài nguyên, bảo vệ an ninh
biên giới.
3- Sắp xếp lại mục tiêu đào tạo hệ thống các trường đại học, trường dạy nghề để
tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực người dân tộc
thiểu số . Chú trọng tăng cường trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện
tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh. Thực hiện tốt chính sách cấp thẻ
khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc thiểu
số. Phát triển mạnh y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn.
4- Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp
luật. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín
ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng
các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số. Nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị, củng cố an ninh nông thôn. Xây dựng và đẩy mạnh
mạnh hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể đến từng bản, làng, quan tâm phát hiện
nguồn, quy hoạch và đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số.
5- Chủ động giải quyết những mâu thuẫn nội bộ ngay từ cơ sở, kiên quyết không để
xảy ra các “điểm nóng”; phát huy các hoạt động lễ hội văn hóa các dân tộc thiểu
số để ngăn chặn các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa gạt, lôi
kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số. Luôn quan tâm đáp ứng các yếu tố
tín ngưỡng truyền thống, chia sẻ những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng
bào.
Cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, các
lực lượng vũ trang nhân dân từ trung ương đến địa phương cần quán triệt sâu sắc,
tuyên tryền để cán bộ, nhân dân hiểu rõ vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn của
địa bàn dân tộc, miền núi và chính sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước,
để từ đó nhận thức đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và chủ động thực
hiện có hiệu quả công tác xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết các dân
tộc trong tình hình mới.
TS. Hoàng Xuân Lương
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc