Thay đổi cách nghĩ về miền núi và dân tộc thiểu số

03:32 11/04/2013 Lượt xem: 415 In bài viết

Với cách nhìn đó, không ít người cho rằng, việc từ bỏ các phong tục tập quán truyền thống là đương nhiên và hợp lý cho sự phát triển. Chủ trương xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta bấy lâu nay là phát huy những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu ở miền núi cũng như trong các dân tộc thiểu số.

Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, về bản chất, văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng người chính là sự hòa hợp, thích ứng với điều kiện tự nhiên, xã hội, nơi họ sinh sống và tồn tại. Văn hóa của các dân tộc thiểu số trên một địa bàn tự nhiên là quá trình tích lũy qua kinh nghiệm quý báu nhờ sự tiếp xúc, gắn bó với tự nhiên, dưới áp lực của sự chọn lọc tự nhiên trong quá trình tiến hóa. Chẳng hạn, một biểu hiện cụ thể của văn hóa và tri thức. Vốn tri thức của các dân tộc thiểu số ở các địa phương, hay còn gọi là tri thức bản địa, được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, được truyền từ đời này sang đời khác, qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội. Nó hướng tới việc hướng dẫn và điều hòa các mối quan hệ xã hội, quan hệ, ứng xử giữa con người với thiên nhiên. Ngày nay, tri thức địa phương là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng của quốc gia, cùng với người dân, góp phần vào quá trình phát triển của vùng miền, của từng dân tộc theo những phương cách ít tốn kém mà lại hiệu quả, bền vững. Các dự án, chương trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường, kể cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh, khi nắm chắc và dựa trên cơ sở tri thức địa phương hợp với lòng dân sẽ được nhiều người dân tham gia đóng góp trí tuệ, công sức. Văn hóa và tri thức địa phương đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề, hạn chế ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Đồng thời, nó có giá trị như một nguồn thông tin quan trọng, hữu ích. Văn hóa và tri thức địa phương vùng núi, của các đồng bào dân tộc thiểu số trên khắp đất nước khi biết phát huy thì nó sẽ là một nguồn sức mạnh nội lực của nhân dân, đất nước. Nó cần phải được trân trọng và phát huy và sẽ là cơ sở của sự thành công trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ một khi chúng ta nhận thức sâu sắc bản chất, giá trị của văn hóa các dân tộc thiểu số, hiểu được giá trị của tri thức địa phương, thì con người nghiễm nhiên là chủ thể chứ không còn là đối tượng đơn thuần của sự phát triển. Họ phải được trao quyền và họ phái là những người quyết định mọi việc liên quan đến vận mệnh, đời sống của chính mình.

Trong mấy chục năm qua, Chính phủ đã có nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo ra những thành tựu, tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả đạt được chưa như mong đợi. Trong nhiều nguyên nhân của sự chậm trễ trong chuyển biến đó, có một nguyên nhân là xu hướng xem nhẹ yếu tố văn hóa, tri thức ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nhiều nhà làm công tác hoạch định chính sách phát triển thường ít am hiểu một cách sâu sắc, đúng đắn và đầy đủ các điều kiện đặc thù về tự nhiên, văn hóa, con người, phong tục tập quán, thói quen, thuận lợi, khó khăn của đồng bào. Đồng thời, chúng ta chưa có cơ chế đối thoại, mở rộng dân chủ, lấy ý kiến cộng đồng dân cư, những người có kinh nghiệm trước khi thực hiện xây dựng, triển khai chương trình, dự án kinh tế, xã hội đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Để phát huy thế mạnh, nguồn lực văn hóa, tri thức ở các địa phương miền núi của đồng bào các dân tộc thiểu số vào quá trình phát triển bền vững ở địa bàn, khu vực và đối tượng này, cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp thiết, tức thời. Dưới góc độ văn hóa, xin có một vài kiến nghị nhỏ sau đây:

Thứ nhất, thay đối nhận thức về văn hóa và vai trò của văn hóa ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển bền vững của đất nước, địa phương. Trước hết, tập trung vào các lĩnh vực nghiên cứu các giá trị, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số để bảo vệ và phát huy. Phát triển giáo dục-đào tạo, thông tin, tuyên truyền, các nhân tố cốt yếu để phát huy thế mạnh, giải quyết khó khăn, nguyên nhân của sự không thành công, bất cập của những chương trình, dự án trong quá trình phát triển ở khu vực, trong đó có những yếu tố truyền thống, văn hóa.

Thứ hai, cần tăng cường trao đổi, thảo luận, nhất là đối thoại với người dân trong khu vực về quá trình phát triển kinh tế, xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các kết quả nghiên cứu, các công trình khoa học của các tập thể, cá nhân về miền núi, vùng đồng bào dân tộc cần phải được kiểm nghiệm của thực tế bằng cách đưa ra thảo luận rộng rãi, đối thoại cởi mở trong cộng đồng và cá cá nhân có kinh nghiệm. Cần đưa ra những giả thuyết, đặt ra những câu hỏi nghi vấn về tính hợp lý, cần thiết, phù hợp và lợi ích thiết thực, cụ thể của chương trình, dự án đó mang lại. Cương quyết loại bỏ những định kiến, quan niệm khuôn mẫu, cứng nhắc, áp đặt, rập khuôn ở nơi khác, dân tộc khác vào địa phương, dân tộc cụ thể.

Thứ ba, triển khai hệ thống quản lý mới về tài nguyên thiên nhiên ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số không thể phát triển hợp lý và bền vững nếu không giữ gìn, bảo vệ, phát triển tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái. Cùng với những kinh nghiệm, tục lệ, thói quen tốt đẹp của đồng bào, các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền cần phổ biến, phát triển hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên ở địa phương phù hợp, ăn khớp với hệ thống quản lý quốc gia. Các luật tục của các dân tộc, các tộc người phải được kết hợp chặt chẽ với pháp luật, quy định của nhà nước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nhất là bảo vệ rừng. Một trong những vấn đề rất quan trọng là, bằng kinh nghiệm hàng nghìn năm của các dân tộc thiểu số, kết hợp với những kinh nghiệm, kiến thức khoa học hiện đại, phải làm sao bằng mọi biện pháp có thể, đa dạng hóa kinh tế miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để người dân sống được nhờ chính các sản phẩm nông, lâm nghiệp mà họ sản xuất ra được.

Thứ tư, nguồn lực con người ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải được phát triển và trao quyền chủ động cho họ, bởi vì bất kỳ sự thành công nào đều phụ thuộc vào nguồn lực con người, mà nòng cốt là người tại chỗ. Do đó, xu hướng chính của việc phát triển nguồn lực con người mở các tỉnh miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là phát triển giáo dục-đào tạo và trao quyền cho người dân tại chỗ. Phương pháp giảng dạy, các hoạt động chính khóa và ngoại khóa phải được quan tâm và nghiên cứu tỷ mỷ, cẩn thận. Đội ngũ giáo viên, sinh viên cần có được nhiều cơ hội, điều kiện tham gia vào các hoạt động nhằm đem lại kỹ năng, tiếp nhận kiến thức, thông tin thích ứng với cuộc sống ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Vũ Ngọc Luân