Bàn về học tiếng Thái, Tày, Nùng
09:53 25/03/2013 Lượt xem: 2658 In bài viếtViệc dạy tiếng dân tộc trong nhà trường có ảnh hưởng lớn tới sức sinh tồn của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, đặc biệt với sự tồn tại và phát triển của hệ thống chữ viết. Nhà trường là kênh chính để truyền bá tri thức giữa các thế hệ, trong đó có ngôn ngữ. Dạy tiếng dân tộc trong nhà trường là một trong những phương thức quan trọng để bảo vệ có định hướng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Ở đó hình thành nên kĩ năng ngôn ngữ của các cá thể nhằm tạo ra những tiền đề cho sự hành chức của một ngôn ngữ trong những phạm vi giao tiếp rộng lớn sau đó.
Năm học 2009-2010 tiếng dân tộc được dạy ở 717 trường, trên địa bàn 18 tỉnh thành phố với 105.687 học sinh, trong đó học sinh Tiểu học: 89.452 em, Trung học cơ sở 13.261 em; Trung học phổ thông 2.974 em. Học sinh học tiếng Khmer đông nhất (63.575 em), kế đến là học tiếng Êđê (11.827 em), tiếng Chăm (10.593 em), tiếng Jrai (7.848 em), tiếng Hoa (7.167 em), tiếng Mông (3.167 em) và tiếng Ba na (1.511 em).
Tuy nhiên, bức tranh dạy tiếng dân tộc trong trường học hiện nay đã vắng các tiếng Thái, Tày và Nùng vốn đã là các ngôn ngữ được dạy đầu tiên trong trường học, tạo nên bức tranh sinh động nhiều màu sắc cách đây nửa thế kỷ. Điều gì đã xảy ra với những tiếng dân tộc đó? Có cần thiết phải tiếp tục dạy học các tiếng đó không? Làm thế nào để có thể tiếp tục dạy? Đó là những câu hỏi không dễ trả lời. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi cung cấp một số tư liệu liên quan để cùng suy ngẫm.
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của mình, nhiều dân tộc đã có chữ viết riêng. Tuy nhiên chưa có ý kiến thống nhất trong việc xác định số lượng chữ viết của các dân tộc thiểu số ở nước ta. Theo Hoàng Tuệ, khoảng 24 dân tộc thiểu số ở nước ta đã có chữ viết, đó là các dân tộc: Tày, Thái, Hoa (Hán), Khmer, Nùng, Mông (Mèo), Giarai, Êđê, Bana, Xơđăng, Kơho, Chàm (Chăm), Hrê, Mnông, Raglai, Xtiêng, Bru, Cơtu, Gié-triêng, Cro, Tàôi, Chơro, Churu, Lào.
Trong số các dân tộc có chữ viết, các ngôn ngữ thuộc nhóm Tày-Thái có các đại diện là các dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Lào, chiếm 1/6 tổng số các chữ viết của các dân tộc thiểu số. Chủ sở hữu của các chữ viết này khoảng 3 triệu người, gần ¼ tổng số người dân tộc thiểu số của cả nước. Về vị thế, sau tiếng Việt, tiếng Tày, Nùng ở Đông Bắc; tiếng Thái ở Tây Bắc... từng được coi là ngôn ngữ của các dân tộc giữ vai trò quan trọng về kinh tế-xã hội trên những địa bàn rộng lớn, là tiếng phổ thông vùng. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có một thứ chữ của dân tộc nào thuộc nhóm Tày-Thái đang được dạy trong trường học, mặc dù từ nhiều năm nay vấn đề này vẫn được nhắc tới trong các hội thảo và bằng cả hành động cụ thể để làm thay đổi tình hình.
Trở lại lịch sử, từ những năm 50-60 của thế kỉ XX chữ Tày - Nùng, chữ Thái đã chính thức được dạy trong trường học ở các tỉnh thuộc Việt Bắc, Tây Bắc. Chữ Thái là chữ đầu tiên của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được đưa vào trường học để dạy cho người lớn và học sinh phổ thông, bắt đầu với chữ Thái Thống nhất từ năm học 1956-1957, đến năm học 1961-1962 đã có học sinh Thái học hết bậc tiểu học bằng chữ Thái.
Chữ Tày- Nùng được đưa vào dạy trong trường học từ đầu những những năm 60 ở 6 tỉnh thuộc Việt Bắc. Vào những năm phong trào học chữ Tày - Nùng phát triển cao nhất (năm học 1967 - 1968), số lớp học chữ Tày - Nùng lên tới hơn 1.000 lớp vào khoảng 37.240 học sinh. Sở Giáo dục Việt Bắc đã biên soạn tài liệu dạy Ngữ văn cho cấp II. Ngoài sách giáo khoa, các sách tham khảo phục vụ việc dạy học tiếng dân tộc đã được biên soạn và xuất bản. Các trường Trung học Sư phạm ở một số tỉnh như: Lạng Sơn, Nghĩa Lộ... đã tố chức đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc. Các Sở Giáo dục Việt Bắc, Khu tự trị Tây Bắc trực tiếp chỉ đạo các trường dạy tiếng dân tộc trong suốt những năm đó...
Tuy nhiên, tới cuối những năm 70 thì phong trào dạy học chữ Tày- Nùng giảm dần và chính thức kết thúc từ năm học 1977 - 1978 với nhiều lí do, trong đó có những lí do liên quan tới chương trình, tới bộ chữ Tày - Nùng. Trước đó, chữ Thái Thống nhất đã tạm ngừng dạy từ năm 1968 đế tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Sau này chữ Thái vẫn tiếp tục được dạy nhưng trong phạm vi hẹp với tính chất thử nghiệm: Đầu những năm 90 ở Thanh Hóa, sau đó ở Sơn La tổ chức dạy chữ Thái những năm 2000, một số trường tiểu học ở Lai Châu dạy thử nghiệm chữ Thái cải tiến với sự hỗ trợ của một tổ chức Phi Chính phủ. Những năm gần đây theo Chỉ thị 38/TTg các Trung tâm giáo dục thường xuyên ở Sơn La, Hoà Bình tổ chức dạy tiếng Thái cho cán bộ công chức; tiếng Tày, Nùng cũng đang được dạy ở các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn... cho cán bộ công chức. Việc dạy tiếng dân tộc theo Chỉ thị 38/CP nhằm vào đối tượng cán bộ không phải là người dân tộc thiểu số để phục vụ công tác tuyên truyền vận động quần chúng, để thay môn ngoại ngữ khi thi công chức.
Đáng quan tâm là mặc dù chương trình này không dành cho người Thái, Tày, Nùng nhưng cán bộ các dân tộc này có nguyện vọng vẫn được theo học. Giáo viên dạy các chương trình này đang thiếu trầm trọng. Giáo viên dạy tiếng Thái ở Hoà Bình lên tu nghiệp ở Trung tâm Giáo dục thường xuyên Sơn La. Còn bản thân Trung tâm Giáo dục thường xuyên Sơn La phải kết hợp với Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La để có đủ đội ngũ giáo viên dạy tiếng Thái. Chương trình dạy tiếng Lào cho cán bộ, chiến sĩ phục vụ cho cắm mốc, ken dày cột mộc biên giới Việt - Lào do Văn phòng Chính phủ chủ trương được Bộ Giáo dục cùng Ban Biên giới tổ chức cũng được triển khai từ năm 2008.
Ngày 15 tháng 7 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã kí ban hành Nghị định số 82/2010/NĐ-CP quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên.
Nghị định đã quy định những nội dung cụ thể đảm bảo việc đưa tiếng dân tộc thiểu số vào dạy trong trường học đảm bảo kết quả. Về điều kiện tổ chức dạy học, Nghị định quy định 5 điều kiện:
- Người dân tộc thiểu số có nguyện vọng, nhu cầu học tiếng dân tộc thiểu số.
- Bộ chữ tiếng dân tộc thiểu số được dạy và học trong nhà trường phải là bộ chữ cổ truyền được cộng đồng sử dụng, được cơ quan chuyên môn xác định hoặc bộ chữ đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
- Chương trình và sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số được biên soạn và thẩm định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số đạt trình độ chuẩn đào tạo của cấp học tương ứng, được đào tạo dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các trường cao đẳng, đại học sư phạm, khoa sư phạm.
- Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học tiếng dân tộc thiểu số theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo.
Về quy trình đưa tiếng dân tộc thiểu số vào dạy học được quy định: Trên cơ sở nguyện vọng của người dân tộc thiểu số và điều kiện tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn. Sau khi Bộ Giáo dục-Đào tạo xem xét các điều kiện về dạy học tiếng dân tộc thiểu số theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn.
Nội dung, phương pháp dạy học tiếng dân tộc thiểu số sẽ được quy định trong từng chương trình tiếng dân tộc thiểu số cụ thể. Hình thức tổ chức dạy học được quy định: Tiếng dân tộc thiểu số là môn học trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên và việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số được thực hiện theo các hình thức tổ chức dạy học ở các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên.
Đặc biệt, Nghị định còn quy định quyền lợi của người dạy và người học tiếng dân tộc đó là: Giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm công việc bằng 0,3 so với mức lương tối thiểu chung; người hoàn thành chương trình tiếng dân tộc thiểu số sẽ được cấp chứng chỉ, được Nhà nước đảm bảo sách giáo khoa.
Trách nhiệm các Bộ, ngành đối với việc tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số được Nghị định quy định rất rõ: Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số; chủ trì, tổ chức biên soạn, thẩm định chương trình, sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số; nghiên cứu, ban hành danh mục thiết bị dạy học tiếng dân tộc thiểu số, quyết định về nội dung, phương pháp, kế hoạch dạy học tiếng dân tộc thiểu số trong các chương trình cụ thể; xem xét các điều kiện về dạy học tiếng dân tộc thiểu số theo đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh; quản lí việc cấp phát chứng chỉ học tiếng dân tộc thiểu số, tổ chức bồi dưỡng, đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số. Các Bộ Nội vụ, Tài chính, Uỷ ban Dân tộc chủ trì hoặc phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành định mức biên chế, chế độ chính sách đối với đội ngũ giáo viên cũng như hướng dẫn quản lí, sử dụng nguồn tài chính cho việc dạy và học tiếng dân tộc, kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy định, chế độ, chính sách về dạy và học tiếng dân tộc thiểu số.
Đặc biệt Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lựa chọn bộ chữ và xác định điều kiện tổ chức dạy và học tiếng dân tộc thiểu số, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số ở địa phương; ra quyết định về việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn; quản lí chỉ đạo việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số cũng như bố trí, đảm bảo các điều kiện về nguồn lực, tài chính phục vụ cho việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số hàng năm.
Như vậy, để dạy học tiếng dân tộc trong trường học, trước hết cần căn cứ vào nhu cầu học tiếng dân tộc của cộng đồng và thực trạng bộ chữ tiếng dân tộc. Đây là các điều kiện tiên quyết để có thể quyết định tiếng dân tộc nào đó được dạy trong trường học.
Năm 1961, Phương án chữ Tày- Nùng ra đời, được Chính phủ phê chuẩn bởi Nghị định 206/CP. Đây là hệ những chữ viết theo hệ La tinh, được xây dựng trên cơ sở những bộ chữ đã tồn tại trong cộng đồng người Tày, Nùng trước đó. Tuy nhiên, sau khi được chính thức hóa, chữ viết này trở nên cứng nhắc, áp đặt. Cái áp đặt của phương án chữ này thể hiện ngay ở bảng chữ cái và quy định viết của nó, có nhiều quy định khác xa với chữ phổ thông; hơn nữa lại không phản ánh hệ thống ngữ âm của một vùng cụ thể nào.
Trên thực tế, bộ chữ này đã được sử dụng để biên soạn sách giáo khoa và in các ấn phẩm văn hóa ở các tỉnh thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Tuy nhiên do những nhược điểm của bộ chữ mà ngay cả các ấn phẩm đã được in cũng khó tìm được cách viết thống nhất. Còn trong xã hội, người ta lại viết theo lối tự phát theo cách sử dụng chữ quốc ngữ để ghi tiếng địa phương mình, ít người biết đến quy tắc chính tả của chữ Tày - Nùng đã được quy định và thừa nhận.
Có thể nói rằng, Phương án chữ Tày- Nùng do Chính phủ phê chuẩn chưa trở thành phương tiện để người Tày và người Nùng có thể sử dụng thuận lợi, chưa được phổ biến rộng rãi trong nhân dân... trong tình cảm của người sử dụng, chữ Tày-Nùng là thứ chữ của ai đó chứ không phải là chữ của người Tày hoặc người Nùng.
Tuy nhiên, cuộc sống vẫn đòi hỏi có cách ghi chép tiếng Tày, tiếng Nùng để phục vụ nhu cầu của đời sống văn hóa, tinh thần. Người ta đã dựa vào bộ chữ quốc ngữ để ghi chép, sáng tác... tạo nên một tình trạng thiếu thống nhất, thiếu khoa học trong ghi chép tiếng Tày, Nùng. Trong bối cảnh đó, việc dạy trở lại chữ Tày - Nùng thật khó khăn biết chừng nào bởi câu hỏi học theo bộ chữ nào vẫn chưa có câu trả lời.
Khác với cộng đồng người Tày, người Nùng, sau khi tiếng Thái tạm dừng dạy cuối những năm 60 thế kỉ XX, liên tục những năm sau đó cho tới nay, nguyện vọng học tiếng Thái, đưa tiếng Thái vào dạy trong trường học vẫn đau đáu trong đội ngũ trí thức người Thái, trong cộng đồng người Thái.
Vấn đề dạy tiếng Thái trong trường học dường như vẫn là nỗi trăn trở không chỉ của người Thái. Nhiều năm nay, một số nhà khoa học và cơ quan nghiên cứu đã tiến hành các cuộc khảo sát, thăm dò về nhu cầu học chữ Thái trong cộng đồng người Thái. Kết quả đều cho thấy số người ủng hộ việc học chữ Thái bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao trong mọi đối tượng được hỏi.
Vấn đề còn lại là dạy bộ chữ Thái nào?
Người Thái ở Việt Nam tự hào là một trong số ít dân tộc thiểu số sở hữu nhiều bộ chữ nhất. Có thế kể tới một số bộ chữ chính như sau: Chữ Thái cổ, Chữ Thái La tinh do người Pháp đề xuất (1949); Chữ Thái thống nhất (1954) và cải tiến (1961); Chữ Thái La tinh hóa, do Viện Ngôn ngữ tạo lập (1980).
Theo Nghị định 82/CP “Bộ chữ tiếng dân tộc thiểu số được dạy và học trong nhà trường phải là bộ chữ cổ truyền được cộng đồng sử dụng, được cơ quan chuyên môn xác định hoặc bộ chữ đó được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
Với tiếng Thái, có thế xem xét ở cả hai khả năng: bộ chữ cổ truyền được cộng đồng sử dụng, được cơ quan chuyên môn xác định hoặc bộ chữ đó được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
Vấn đề liên quan tới việc chọn bộ chữ để dạy trong trường học thuộc về quyền hạn của các địa phương, đó là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sự phân cấp như vậy sẽ là thuận lợi đối với các dân tộc cư trú tương đối tập trung. Nhưng sẽ là khó khăn đối với các dân tộc cư trú ở nhiều địa phương, như đối với cộng đồng người Thái. Cố Giáo sư Cầm Cường cách đây hơn 10 năm khi bàn tới việc sử dụng chữ Thái thống nhất trong từng vùng Thái để có vai trò “bản mường ngữ” đã viết: “Cái khó khăn nổi bật là không một tỉnh nào, kể cả Sơn La tỉnh đông dân Thái nhất nước, dám đứng ra làm cái việc khó khăn này cho hơn triệu dân Thái cả nước vốn đã bị đế quốc Pháp đẩy sâu thêm tính cát cứ địa phương”.
Như vậy, do sự phong phú của bộ chữ, sự phân tán của cộng đồng sử dụng tiếng Thái đã làm tăng thêm những khó khăn không nhỏ trong quyết định bộ chữ dạy trong trường học. Điều này đòi hỏi các nhà Thái học, trước hết là các trí thức dân tộc Thái - những người am hiểu chữ Thái, có những hành động tích cực, thiết thực để việc công nhận một bộ chữ Thái sớm được thực hiện.
Gìn giữ và phát triến ngôn ngữ là nhiệm vụ lịch sử của mỗi thành viên trong xã hội. Giáo dục là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ. Dạy học ở nhà trường là điều kiện tốt nhất đế chữ viết tồn tại và hoàn thiện. Với tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số, nhà trường dạy con em đồng bào dân tộc hiểu các văn bản và tạo ra các văn bản mới, nhờ đó ngôn ngữ dân tộc được bảo tồn. Quan trọng hơn, tiếng dân tộc được dạy trong nhà trường được truyền cho thế hệ này nối tiếp thế hệ kia sẽ là một ngôn ngữ có chức năng lớn hơn, phong phú hơn ngôn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó, tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số không ngừng hoàn thiện, phát triển.
Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với việc dạy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số là rõ ràng và trước sau không thay đổi. Ngành giáo dục đã và đang cố gắng để tiếng dân tộc thiểu số được dạy trong trường học liên tục mấy chục năm qua, mặc dù có lúc, có nơi có thời kì phát triển lay lắt. Đến nay, hàng năm có hàng trăm nghìn con em các dân tộc đã được học tiếng mẹ đẻ. Chúng ta hi vọng trong tương lai gần, tiếng Thái, đại diện nhóm Tày-Thái sẽ có mặt trong danh sách các tiếng dân tộc được dạy trong trường học, làm bớt đi nỗi day dứt của những người đã, đang yêu quý tiếng Thái.
TS. Mông Ký Slay