Thực trạng và giải pháp đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội địa bàn dân tộc, miền núi tỉnh Quảng Ninh
03:35 11/04/2013 Lượt xem: 447 In bài viếtQuảng Ninh là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở địa đầu vùng Đông Bắc của Tổ quốc, hội tụ đầy đủ các yếu tố đặc thù về điều kiện vị trí, địa hình, tự nhiên, xã hội, kinh tế, con người Việt Nam; có rừng vàng, biển bạc, sông núi, nước non... với 118,825 km đường biên giới đất liền giáp nước CHND Trung Hoa, hơn 191 km đường phân định Vịnh Bắc bộ trên biển.
Với vị trí địa chính trị - kinh tế chiến lược đặc
biệt, Quảng Ninh được ví như “đất nước Việt Nam thu nhỏ”. Dân số toàn tỉnh hiện
nay trên 1,1 triệu người gồm 22 thành phần dân tộc, trong đó các dân tộc thiểu
số chiếm 12,52%. Tỉnh có 14 đơn vị hành chính trực thuộc với 186 xã, phường, thị
trấn, trong đó có 112 xã vùng dân tộc, miền núi. Hiện nay Quảng Ninh là tỉnh duy
nhất cả nước có 4 thành phố trực thuộc tỉnh. Tuy nhiên, tỉnh hiện còn 52 xã khó
khăn, trong đó có 21 xã đặc biệt khó khăn. Dân số vùng dân tộc, miền núi chiếm
khoảng 50% số dân nhưng lại cư trú trên một vùng rộng lớn chiếm hơn 85% diện
tích của tỉnh và có vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng. Cùng với Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh được xác định là cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng
điểm Bắc bộ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong những năm qua trên 12%/năm;
tổng thu ngân sách trên địa bàn những năm qua tăng bình quân 35,16%/năm; riêng
năm 2011 tổng thu ngân sách đạt 29.100 tỷ đồng (đứng thứ 5 toàn quốc); GDP bình
quân đầu người ước đạt 2.264USD.
Thời gian qua Tỉnh ủy Quảng Ninh đã quán triệt và cụ thể hóa các văn bản Nghị
quyết, Kết luận, Chỉ thị của Đảng có liên quan, như: Chương trình hành động số
14-CTr/TU ngày 08/5/2003 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW7 (khóa IX)
“về công tác dân tộc”; Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 11/6/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy triển khai thực hiện Kết luận số 57-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Hội nghị TW7 (khóa IX) “về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số 01-NQ/TU
ngày 27/10/2010 của của BCH Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông thôn mới, v.v... Tỉnh
cũng vận dụng linh hoạt các chính sách dân tộc của Trung ương trong quá trình áp
dụng thực hiện trên địa bàn tỉnh, như: Tăng mức hỗ trợ, đầu tư cao hơn mức quy
định của Trung ương; mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách dân tộc; tập trung
huy động mọi nguồn lực xã hội để tổ chức thực hiện, rút ngắn tiến độ thực hiện
một số chương trình, dự án và chính sách dân tộc... Những năm qua, đầu tư cho
phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội tăng bình quân 35,6%/năm; cho an sinh
xã hội tăng bình quân 59%/năm. Vì vậy, cùng với sự phát triển chung của tỉnh,
những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi ở Quảng Ninh ổn
định và phát triển, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh được cải thiện: 100% xã có đường ô tô
đến trung tâm xã; 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; hơn
90% số hộ dân ở các xã nghèo được sử dụng điện lưới quốc gia; 86% hộ dân được sử
dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 84% số xã có chợ trung tâm cụm xã. Kết quả
chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở được giữ vững. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm nhanh qua từng năm; năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo còn 4,89%; tỷ lệ hộ cận
nghèo còn 2,94%. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Quảng Ninh thuộc nhóm
phát triển cao, hiện đứng thứ 5 cả nước.
Nhiều chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền
núi, biên giới, biển đảo của tỉnh đạt hiệu quả trong thời gian gần đây như:
Chương trình Phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình
135); chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn
theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 7/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án
hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo (Chương trình 134); chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở, chính
sách phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, an sinh xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phòng… Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 14/2009/NQ-HĐND về cơ chế
hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng các xã thuộc vùng khó khăn trên địa bàn tỉnh
giai đoạn 2010-2020 cho 54 xã khó khăn của tỉnh với mức hỗ trợ mỗi xã 500 triệu
đồng/năm, bằng 50% mức hỗ trợ của Trung ương cho Dự án hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ
tầng thuộc Chương trình 135. Hiện nay, Tỉnh ủy Quảng Ninh đặc biệt chú trọng
triển khai thực hiện Chương trình Xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc, miền núi.
Từ cuối năm 2010 đến nay, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp triển khai thành
lập Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ tỉnh đến cơ sở. Riêng năm 2011, tỉnh
đã tập trung nguồn ngân sách địa phương cho xây dựng nông thôn mới, với tổng số
tiền gần 1.800 tỷ đồng. Đến tháng 5/2012, có 125/125 xã của tỉnh phê duyệt xong
Quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội vùng dân
tộc, miền núi, nhất là các xã, thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, biên giới còn
nhiều khó khăn. Đến hết năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 4,89% nhưng tỷ lệ
hộ nghèo tại 54 xã khó khăn vẫn còn 22,88%. Còn chênh lệch lớn giữa vùng đồng
bằng, đô thị với vùng miền núi, biên giới, biển đảo, vùng dân tộc. Gần 50% dân
số sống ở vùng nông thôn, nhưng hiện chỉ đóng góp 5,1% GDP (như vậy, một người
làm ở thành thị bằng khoảng 19 người ở nông thôn; khoảng cách giữa 20% người
giàu nhất với 20% người nghèo nhất khoảng 8 lần). Ở vùng dân tộc, miền núi, tập
quán sản xuất, canh tác lạc hậu; hạ tầng cơ sở thiết yếu phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội tuy đã từng bước được đầu tư nâng cấp song chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay; chất lượng công tác giáo dục và
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vùng miền núi, biên giới còn khoảng cách khá lớn
so với vùng đồng bằng, đô thị của tỉnh; tư tưởng trông chờ ỷ lại, an phận, thiếu
ý chí vươn lên thoát nghèo đã và đang tồn tại ở một bộ phận đồng bào vùng dân
tộc, miền núi.
Thực trạng đó đòi hỏi phải có các giải pháp để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc, miền núi tỉnh Quảng Ninh, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các vùng miền trong tỉnh. Xác định vùng đô thị
và các khu vực trung tâm tỉnh Quảng Ninh phát triển mạnh là chỗ dựa vững chắc và
là điều kiện thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đối
với vùng dân tộc, miền núi và các khu vực khác chưa phát triển của tỉnh.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các Nghị
quyết, Kết luận của các Hội nghị Trung ương khóa XI, Tỉnh ủy Quảng Ninh đang tập
trung chỉ đạo xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng
Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu: Năm 2015 trở thành tỉnh
công nghiệp, dịch vụ theo hướng hiện đại; đến năm 2020 là tỉnh dịch vụ, công
nghiệp hiện đại; đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm
tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững theo hướng phát triển xanh; tạo bước
phát triển rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định kinh tế vĩ
mô, đảm bảo an sinh xã hội. Hiện nay, Tỉnh ủy đang chỉ đạo triển khai xây dựng
Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong sự nghiệp phát
triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển
đảo gắn với đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030”. Đề án đang tính đến các mục tiêu như: Đến năm 2015 tỷ
lệ hộ nghèo các xã miền núi dưới 15%; 80% số gia đình, 65% số thôn bản thuộc khu
vực miền núi, biên giới, biển đảo và đồng bào dân tộc thiểu số đạt chuẩn văn hóa;
100% số xã duy trì và nâng cao chất lượng đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở; có 90% cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn; 100% xã đạt tiêu chí
Quốc gia về y tế. Hàng năm có trên 80% đảng bộ và các tổ chức đoàn thể xã đạt
trong sạch vững mạnh. Đến năm 2020, 80% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, 100%
số xã có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đạt tiêu chí nông thôn mới, tỷ lệ hộ
nghèo giảm căn bản, tỷ lệ dân nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh đạt trên
98%; 100% cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; có
ít nhất 85% số gia đình, 75% số thôn bản thuộc khu vực miền núi, biên giới, hải
đảo và đồng bào dân tộc thiểu số đạt chuẩn văn hóa. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ
thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực đô thị, đồng bằng với vùng dân tộc,
miền núi. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng dân tộc thiểu số phải
được nâng lên rõ rệt.
Để địa bàn vùng miền núi, dân tộc phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc; thu hẹp khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các vùng miền; đảm bảo vững chắc quốc phòng-an ninh,
tỉnh Quảng Ninh sẽ tập trung triển khai các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy Đảng các
cấp về công tác dân tộc; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội về vai trò, vị trí của công tác dân tộc trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại,
thiếu ý chí vươn lên thoát nghèo của đồng bào vùng dân tộc, miền núi.
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đang nghiên cứu và sẽ ra Nghị quyết về
“Phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững quốc phòng – an ninh vùng đồng bào dân
tộc” để thống nhất xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và
các giải pháp tổng thể thực hiện trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ chú
trọng hơn nữa đến công tác quy hoạch, quản lý tốt đội ngũ cán bộ làm công tác
dân tộc ở các địa phương, cơ sở; đảm bảo hợp lý tỷ lệ người dân tộc thiểu số
tham gia cấp ủy Đảng các cấp. Quan tâm sâu sát công tác phát triển đảng viên ở
các thôn, bản; trong đó chú trọng đến dân tộc thiểu số. Tăng cường hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát đối với việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về công tác dân tộc. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Chú trọng các giải pháp về
công tác tuyên truyền, trong đó xác định bên cạnh việc tuyên truyền về chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cần phổ biến về cách thức
làm ăn, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính
đáng; khắc phục tư tưởng ỷ lại, tự ti, an phận của một bộ phận nhân dân, nhất là
trong đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng các nhân tố điển hình, tiêu biểu trong
phát triển kinh tế - xã hội tại vùng dân tộc, miền núi.
Hai là, tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng;
thực hiện đồng bộ có hiệu quả các chính sách dân tộc; chương trình Xây dựng nông
thôn mới; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để khai thác hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của vùng dân tộc, miền núi.
Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi theo định hướng phát triển kinh tế - xã
hội chung của tỉnh. Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư ngân sách cho các xã
miền núi của tỉnh hàng năm đều chiếm trên 30% so với tổng vốn đầu tư (do tỉnh
quản lý), trong đó năm 2011 tỷ lệ đầu tư chiếm 38,5%. Tỉnh sẽ đẩy nhanh tiến độ
các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng. Đầu tư kiên cố hóa giao thông nông
thôn, đầu tư hệ thống điện lưới quốc gia đến các thôn, bản chưa đươc sử dụng
điện lưới quốc gia, đặc biệt là triển khai việc đưa điện lưới quốc gia ra huyện
đảo Cô Tô; Chú trọng công tác bảo vệ và phát triển rừng, nhất là đối với rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn. nâng cấp và xây dựng các hồ chứa nước có quy
mô vừa và nhỏ để tăng khả năng giữ nước, giúp ổn định diện tích tưới cho đất sản
xuất nông nghiệp, kết hợp cấp nước sinh hoạt cho người dân vùng dân tộc, miền
núi.
Khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp để
tăng năng suất trên đơn vị diện tích. Khai thác hiệu quả lợi thế về đất rừng để
phát triển rừng, chăn nuôi gia súc, kinh tế trang trại ở vùng dân tộc, miền núi,
biên giới. Đầu tư phát triển đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản ở vùng
biển đảo. Tập trung đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao
thu nhập cho nông dân. Đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, nghiên cứu tạo các
sản phẩm du lịch đặc trưng vùng dân tộc tỉnh Quảng Ninh. Thực hiện tốt công tác
quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội vùng miền núi, biên giới, biển đảo, tiến
hành rà soát điều chỉnh việc quy hoạch di dân ra biên giới, lấy di dân tại các
thôn, bản, xã giáp biên là chính.
Ba là, chú trọng phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và đẩy
nhanh công tác giảm nghèo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường công
tác đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số ở địa phương, vùng dân tộc, miền núi,
biên giới, biển đảo.
Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa cộng đồng vùng dân tộc,
miền núi. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu
số. Đẩy mạnh triển khai dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, viên
chức công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Củng cố hệ thống truyền thanh ở
các thôn, bản, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị cho các nhà văn hóa thôn, bản.
Phát triển hệ thống cơ sở giáo dục theo hướng chuẩn hóa, mở rộng quy mô, đa dạng
hóa các loại hình trường lớp, đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
đào tạo. Quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, trong
đó chú trọng đào tạo nguồn cán bộ là con em các dân tộc ở vùng dân tộc, miền
núi, biên giới, biển đảo. Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, có chương trình đào
tạo, đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đa dạng hoá, phát triển
nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề; chú trọng dạy nghề gắn với các
doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội ở từng địa phương.
Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, khám, chữa bệnh, bảo
hiểm y tế. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác y tế dự phòng. Xây dựng, duy
trì hoạt động mô hình y tế Quân Dân y kết hợp tại các địa phương vùng biên giới,
biển đảo.
Bốn là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc, xây dựng và phát
huy khối đại đoàn kết các dân tộc
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tổ chức sơ, tổng kết các chính sách dân
tộc theo định kỳ hàng năm hoặc theo từng giai đoạn, trên cơ sở đó nghiên cứu,
xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh hoặc đề xuất với Trung ương xây
dựng các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư cho vùng dân tộc, miền
núi cho những năm tiếp theo. Chủ động huy động, lồng ghép các nguồn lực để thực
hiện hiệu quả các chương trình, dự án đầu tư vào vùng dân tộc, miền núi trên địa
bàn.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cơ quan công tác dân tộc thuộc Ủy
ban nhân dân các cấp. Từ đầu năm 2011 tỉnh đã thành lập, kiện toàn tổ chức bộ
máy 8 phòng dân tộc thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện ở những địa phương có đủ
điều kiện, qua đó nâng cao năng lực, hiệu quả công tác tham mưu giúp chính quyền
các địa phương làm tốt chức năng quản lý Nhà nước về công tác dân tộc.
Chú trọng chỉ đạo để đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, đoàn kết rộng
rãi các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo. Đẩy mạnh việc thực
hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Gắn cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” với phong trào tự
quản đường biên, cột mốc ở các xã, phường biên giới. Nâng cao chất lượng các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Xây dựng và phát huy vai trò của người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào
các dân tộc thiểu số.
Năm là, gắn phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo vững chắc quốc phòng, an
ninh vùng miền núi, biên giới, biển đảo. Chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc, thế
trận biên phòng toàn dân vững mạnh vùng dân tộc, miền núi. Tiếp tục xây dựng,
phát triển các khu kinh tế kết hợp quốc phòng trong vùng. Tập trung đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng khu vực vành đai biên giới. Làm tốt công tác vận động đồng
bào các thôn bản, hộ gia đình cư trú làm ăn, sản xuất sát đường biên giới phát
huy tinh thần làm chủ, tự giác tham gia tổ tự quản đường biên, cột mốc biên
giới. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các
thế lực thù địch hòng gây mất an ninh, trật tự và gây chia rẽ mối đoàn kết các
dân tộc vùng miền núi, biên giới, biển đảo.
Công tác dân tộc và thực hiện các chính sách dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên,
lâu dài của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính
trị. Thời gian tới với sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, sự phối hợp chặt chẽ
với các Bộ, ngành địa phương cùng với quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh nhằm thực hiện thắng lợi các văn bản của đảng và tiến
hành triển khai hiệu quả các đề án phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, nhất
định công tác dân tộc tỉnh Quảng Ninh sẽ có chuyển biến tích cực; địa bàn vùng
dân tộc, miền núi sẽ có sự phát triển nhanh và bền vững, góp phần vào việc hoàn
thành mục tiêu, định hướng của tỉnh đặt ra trong giai đoạn mới.
Phạm Minh Chính
Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh