Vấn đề đất sản xuất của người dân tái định cư

09:07 11/04/2013 Lượt xem: 462 In bài viết

Đối tượng chính chịu ảnh hưởng do hoạt động công nghiệp hoá nói trên đại bộ phận là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng rừng núi, phần lớn trong số họ thuộc diện hộ nghèo.

Do có những phàn nàn cụ thể của người dân về những khiếm khuyết khi thiết kế cũng như thi công các công trình nói trên và nguồn lực tài chính, nên các hoạt động phê duyệt dự án, kiểm tra trước, trong và sau thi công của các cơ quan chức năng thường hướng trọng tâm vào các công trình xây dựng cơ bản. Trong lúc đó, tất cả chúng ta đều biết rằng cơ sở nền tảng của định cư là định canh; mà cơ sở của định canh là đất sản xuất ổn định lâu dài, đây là điều kiện tiên quyết.

Nói đến đất sản xuất ổn định, phải chú trọng giải quyết loại đất có thể “níu chân” đồng bào định canh định cư. Trong quá khứ, việc canh tác đất nương rẫy để sản xuất lương thực, giải quyết cái ăn hằng ngày, theo tập quán lạc hậu đã dẫn đến tình trạng du canh du cư. Vì vậy, trong quá trình vận động định canh định cư, Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến khai hoang đất trồng lúa nước và hướng dẫn bà con quen dần với tập quán sản xuất lúa nước. Ngoài việc giải quyết lương thực bằng con đường canh tác lúa nước là chính, Nhà nước đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi thông qua thực hiện các chương trình, dự án để đồng bào dân tộc thiểu số được nhận đất và trồng cây công nghiệp dài ngày như Cao su, Cà phê,... hoặc trồng rừng kinh tế. Hẳn nhiên là còn chăn nuôi gia cầm, gia súc, trồng các loài cây khác; song có thể nói, việc phát triển lúa nước, cây công nghiệp dài ngày và trồng rừng kinh tế đã bảo đảm sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Thừa Thiên-Huế ổn định bền vững, “níu chân” được đồng bào các dân tộc định canh định cư trong mấy chục năm qua.

Người viết bài này, có dịp đến các khu TĐC nói trên, trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang sống trong các khu TĐC. Câu trả lời và nguyện vọng của các hộ dân là: “Tương đối hài lòng, chỉ có điều không hài lòng là thiếu đất sản xuất, mong Nhà nước quan tâm giải quyết đất sản xuất để trồng lúa nước, trồng cây công nghiệp dài ngày hay trồng rừng kinh tế”.

Trong tất cả các công trình trên địa bàn thì thuỷ điện A Lưới là công trình lớn nhất về cả quy mô đầu tư lẫn mức độ ảnh hưởng đến các hộ dân. Giữa năm 2011, chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát và phỏng vấn toàn diện 974 hộ dân (chiếm tỷ lệ khoảng 75%) bị ảnh hưởng bởi thuỷ điện A Lưới. Kết quả cho thấy: Đối tượng hộ nghèo và cận nghèo chiếm tỷ lệ khoảng trên 47%; hộ gia đình chính sách xã hội khoảng 50%, cho thấy họ rất dễ bị tổn thương về mặt tinh thần. 90% số hộ bị thu hồi toàn bộ hoặc còn rất ít đất sản xuất hằng năm (dưới mức quy định theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg) có nguy cơ mất an toàn lương thực gia đình. Khoảng 55% số hộ không có, không còn hoặc còn rất ít đất trồng cây lâu năm, có nguy cơ không còn hoặc hạn chế thu nhập tiềm năng, ảnh hưởng đến mục tiêu thoát nghèo bền vững và không phát sinh hộ nghèo mới, đồng thời thiếu cơ hội làm giàu từ sản xuất nông lâm nghiệp.

Về sử dụng tiền đền bù, bồi thường: Tổng số tiền đã đền bù cho dân tính tới thời điểm khảo sát khoảng 180 tỷ đồng. Chỉ có 15% số hộ sử dụng trên 30% số tiền đền bù đầu tư vào sản xuất. Sau 1 năm, kể từ ngày nhận tiền đền bù, có trên 84% số hộ không còn đồng nào, gần 8% còn dưới 30% số tiền được đền bù. Đáng lưu ý là gần 29% số hộ có số tiền đền bù từ 100 triệu đồng trở lên. Hết tiền, không có đất sản xuất, đồng bào sẽ làm gì để sống? Hệ luỵ tất yếu là phá rừng trái phép để lấy đất sản xuất.

Do đất bị thu hồi đều được quy ra tiền và đền bù bằng tiền cùng với tài sản trên đất, thay vì dùng đất sản xuất để bồi thường đất bị thu hồi. Điều này đã làm trầm trọng thêm “căn bệnh” thiếu đất sản xuất của đồng bào bị thu hồi đất. Và tất nhiên, không còn con đường nào khác đối với người nông dân miền núi khi thiếu đất sản xuất là phá rừng trái phép.

Xin đơn cử, từ năm 2009 đến nay, so sánh diễn biến tài nguyên rừng tự nhiên, qua các ảnh vệ tinh chụp tháng 5/2009, tháng 7/2010, tháng 5/2011 và tháng 4/2012, chúng ta rất dễ dàng phát hiện ở các tiểu khu rừng tự nhiên huyện A Lưới mang các số hiệu 289 (xã Hồng Bắc), 295 và 296 (xã Nhâm), 301 (xã Hồng Thái), 306 (xã Hồng Thượng),… cứ mỗi tiểu khu nói trên có hàng chục ha rừng tự nhiên bị phá trái phép để làm nương rẫy. Tại xã Nhâm, có ít nhất 80 hộ dân trong xã và xã Hồng Quảng đã xây dựng các lán trại để sinh hoạt, nghỉ ngơi gần nơi làm nương rẫy, báo hiệu bắt đầu của chuỗi du canh du cư mới.

Ở xã Hồng Thượng, nơi có khu tái định cư tập trung (chủ yếu dành cho dân 2 xã Hồng Thái, Hồng Thượng) và xã Hồng Thái nơi bị ảnh hưởng lớn sau khi tích nước lòng hồ thuỷ điện A Lưới, do đất sản xuất dành cho 106 hộ ở khu tái định cư, tuy có quy hoạch và tương đối bảo đảm về số lượng, song chất lượng đất kém, khó đáp ứng yêu cầu sản xuất lương thực, nên đầu năm 2012, tình trạng người dân phá rừng tự nhiên để làm nương rẫy tiếp tục lan rộng. Xu thế này đang ngày càng gia tăng và thật sự khó ngăn chặn.

May thay, giữa năm 2011, tỉnh đã nhận ra vấn đề và chỉ đạo phải trích 50% số tiền đền bù mà các hộ dân sẽ tiếp tục được nhận theo chính sách đền bù mới để thực hiện phương án “đất đổi đất”. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chủ trương này vẫn còn lắm gian nan. Đến thời điểm này, bài toán đất sản xuất cho đồng bào tái định cư thuỷ điện A Lưới vẫn chưa có lời giải trọn vẹn.

Ở các khu tái định cư còn lại trên địa bàn, tình trạng giải quyết đất sản xuất cũng không khác gì thuỷ điện A Lưới. Thậm chí, có khu tái định cư còn khó khăn hơn rất nhiều, như tái định cư Bến Ván, đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều không có đất sản xuất và cũng không nhận tiền đền bù về đất, mấy năm nay vẫn đang chờ nhận đất đền bù!? Song đất sản xuất ở đâu để giải quyết cho bà con vẫn là câu hỏi chưa có lời đáp.

Từ thực trạng trên, chúng ta cần đối mặt với vấn đề giải quyết đất sản xuất, việc làm cho đồng bào tái định cư để có các giải pháp thích hợp, sát thực tế. Nếu không, không chỉ dẫn đến nguy cơ rừng tự nhiên tiếp tục bị tàn phá mà còn có thể góp phần gây bất ổn về mặt xã hội, tái diễn tình trạng du canh du cư.

Đất sản xuất nông nghiệp nói chung ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá. Vì vậy, ngoài việc khảo sát kỹ đất có thể trồng lúa nước để khả năng đến đâu khai hoang đến đó, cần chú trọng khảo sát các khu rừng tự nhiên nghèo kiệt thuộc quy hoạch rừng sản xuất do các Ban Quản lý rừng phòng hộ hay Uỷ ban nhân dân xã quản lý để thu hồi và xây dựng phương án cải tạo rừng theo tinh thần Thông tư 99/2006/TT-BNN-PTNT ngày 06/11/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trên cơ sở đó tiến hành giao cho từng hộ để trồng rừng kinh tế hoặc trồng cây công nghiệp dài ngày. Các ngành liên quan cấp tỉnh, nhất là ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần thật sự quan tâm với tinh thần trách nhiệm cao để phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương tiến hành rà soát quỹ đất rừng sản xuất trên địa bàn để xây dựng phương án chuyển giao cho các hộ dân thiếu đất sản xuất. Bảo đảm tất cả các hộ, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số bị mất đất đều có đủ đất sản xuất nông lâm nghiệp. Để mỗi hộ dân mất đất có sinh kế bền vững, tối thiểu phải có 2 ha đất trồng rừng kinh tế hay 1 ha đất trồng cây công nghiệp dài ngày; mỗi hộ có tối thiểu 1.500 m2 ruộng 2 vụ hoặc 2.500 m2 ruộng 1 vụ hay 5.000 m2 đất nương rẫy ổn định (theo mức quy định tại QĐ 134/QĐ-Tg); mỗi hộ có tối thiểu 500m2 đất vườn gắn với nhà ở; tuỳ điều kiện thực tế, phát huy lợi thế vùng núi, có thể giao thêm mỗi hộ dân từ 1-5 ha rừng tự nhiên để quản lý bảo vệ và sử dụng đất dưới tán rừng trồng các loại cây chịu bóng và chăn nuôi. Như vậy bình quân mỗi hộ nói trên hàng năm có khoảng 1.350 kg lương thực có hạt, bình quân đạt 270kg/khẩu (mỗi hộ có khoảng 5 khẩu), bảo đảm không chỉ có lương thực đủ ăn mà còn có thể dự trữ phòng trường hợp mất mùa; có đất vườn để trồng rau, cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm, gia súc, vừa cải thiện dinh dưỡng hàng ngày, vừa trao đổi, mua bán sản phẩm từ vườn phục vụ các nhu cầu sinh hoạt gia đình; có rừng trồng hay cây công nghiệp dài ngày, sản phẩm từ rừng tự nhiên để có thu nhập tiềm năng, tích luỹ vốn và tái sản xuất. Tuỳ điều kiện cụ thể của từng địa phương để cân đối tăng, giảm diện tích giữa các loại đất, theo nguyên tắc quy đổi giá trị.

Ở những nơi có rừng trồng kinh tế, nên giải quyết đền bù cho dân cả đất và giá trị tài sản rừng trồng trên đất. Cách làm này, vừa đáp ứng yêu cầu đền bù nhanh, kịp thời cho dân( không chờ khai thác xong rừng mới bàn giao đất), vừa giúp dân có “kho dự trữ” tiền mà không bị mất giá, thậm chí còn có lãi nhiều, nhờ rừng trồng ngày càng tăng trưởng. Đối với địa phương có rừng trồng Thông nhựa, có thể giải quyết đền bù đất bằng rừng trồng Thông nhựa và hướng dẫn bà con khai thác nhựa, bảo đảm ổn định cuộc sống lâu dài.

Khi giao sổ đỏ công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân phải gắn với việc giải thích các quyền năng cơ bản của hộ gia đình được giao đất và cấp sổ đỏ. Theo đó, những trường hợp hộ dân được giao đất mà chưa đủ điều kiện để sử dụng đất đó có hiệu quả ngay, họ có thể dùng đất được giao để liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, hộ khác hoặc cho thuê đất có thời hạn thích hợp. Để khắc phục tình trạng có hộ vì lợi ích trước mắt, chuyển quyền sử dụng đất cho người khác để lấy tiền, khi giao sổ đỏ nên ghi hẳn vào sổ “không được chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho trong thời gian 10 năm.

Trong tương lai, khi thực hiện bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất cho các hộ dân để triển khai các dự án đầu tư nên có chủ trương khuyến khích đồng bào sử dụng giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi hoặc tiền bồi thường để tham gia góp vốn cùng đầu tư với nhà đầu tư; trở thành cổ đông của doanh nghiệp đầu tư. Được vậy, lợi ích của nhà đầu tư sẽ gắn liền với lợi ích của đồng bào; họ sẽ quan tâm và hợp tác chặt chẽ hơn với nhà đầu tư trong quá trình giải quyết các vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng cũng như quản lý và bảo vệ công trình trong tương lai. Một vấn đề đặt ra khi thực hiện giải pháp này là trong điều kiện đồng bào dân tộc thiểu số chưa am hiểu về luật đầu tư có thể cùng nhau uỷ quyền cho người đại diện có năng lực như lãnh đạo các đoàn thể hay chính quyền để làm đại diện cổ đông tham gia vào các quan hệ giao dịch dân sự và kinh tế.

Đối với việc xem xét và phê duyệt các dự án tái định cư (dù tập trung hay phân tán) trong tương lai, nhất thiết phải đặt ngay vấn đề đầu tiên là đất sản xuất cho người dân ở đâu, bao nhiêu, có bảo đảm sinh kế bền vững hay không.

Đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tuyệt đại bộ phận là nông dân, vì vậy họ phải có đủ đất để sản xuất, không chỉ nhằm xoá đói giảm nghèo mà còn bảo đảm sinh kế bền vững, tiến tới xây dựng đời sống khá giả. Việc chuyển đổi ngành nghề khác chỉ có thể thực hiện trong một vài trường hợp cá biệt. Do vậy, giải quyết vấn đề đất sản xuất cho người dân tái định cư vừa là trách nhiệm, vừa là lương tâm của những người có thẩm quyền. Đồng thời đã đến lúc đề ra yêu cầu mới khi thực hiện tái định cư là không chỉ có cơ sở hạ tầng, mà còn “điều kiện sản xuất của nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ”. Làm được vậy, sẽ góp phần thúc đẩy nhanh sự nghiệp xây dựng nông thôn mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Võ Văn Dự
Phó trưởng Ban Dân tộc tỉnh Thừa Thiên Huế