Học thuyết Hồ Chí Minh, học thuyết giải phóng
04:39 01/07/2013 Lượt xem: 1535 In bài viếtCó thể gọi Học thuyết Hồ Chí Minh là học thuyết Giải phóng. Tiêu điểm của học thuyết này là giải phóng dân tộc. Đó là giải phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi tình cảnh nô lệ, bị áp bức đọa đầy bởi thực dân đế quốc và phong kiến. Bởi thế, muốn cứu dân trước hết phải cứu nước và cứu nước để cứu dân, giải phóng dân tộc để giành lại quyền làm chủ của dân.
Học thuyết giải phóng Hồ Chí Minh kết hợp trong đó nội dung chính trị với đảm bảo đạo đức và căn cứ khoa học - thực tiễn rất sâu sắc. Học thuyết giải phóng Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp giữa tư tưởng cách mạng với phương pháp khoa học.
Học thuyết đó không chỉ là nhận thức mà còn là hành động. Đó là học thuyết của những thay đổi và cải biến, là cách mạng và đường cách mạng.
Nội dung học thuyết Giải phóng của Hồ Chí Minh bao gồm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp (giai cấp công nhân), giải phóng xã hội loài người và giải phóng con người.
Để định hình những nội dung ấy, Người phải trải qua một quá trình khảo sát thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đối chiếu so sánh giữa các đường lối, chủ trương, học thuyết, tổng kết các cuộc cách mạng, thấy ở đó những điểm tương đồng và khác biệt, những mâu thuẫn và hạn chế, nghiền ngẫm những sự kiện và hoàn cảnh, những phương pháp, cách thức và bước đi để tự mình xác định con đường phải đi, độc lập giải quyết những vấn đề đặt ra đối với đất nước và dân tộc mình trong một hoàn cảnh đặc thù.
Nhờ đó, Người đã nhận thức đúng và giải quyết thành công hàng loạt mối quan hệ phức tạp, mới mẻ trong bối cảnh những năm 20, 30 của thế kỷ XX, đưa phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân ta vào quỹ đạo của thời đại cách mạng vô sản, tạo ra những bước ngoặt giành thắng lợi.
Trước hết, phải nhận rõ kẻ thù và tìm thấy lực lượng. Trải qua những năm tháng lao động và đấu tranh, Người thấy rõ, ở đâu bọn thực dân đế quốc cũng dã man tàn bạo, ở thuộc địa cũng như ở chính quốc. Ở đâu những người lao động nghèo khổ cũng cơ cực, lầm than, bị bóc lột, áp bức như nhau. Người đi tới một nhận thức chính trị rõ ràng, không một chút mơ hồ: tư bản, đế quốc, thực dân là kẻ thù và những người lao động dù khác màu da, tiếng nói cũng đều chung một cảnh ngộ, đều là anh em, bạn bè, đồng chí của nhau. Lũ ác quỷ thực dân thì phải đánh đuổi nó đi và tất cả những người lao động phải đoàn kết lại để tiêu diệt kẻ thù chung. Học thuyết lý luận của Hồ Chí Minh là lý luận chống chủ nghĩa thực dân (CNTD), lý luận giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, chủ quyền và dân chủ.
Tám điều yêu sách mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi tới Hội nghị Véc xay 1919 là văn kiện đầu tiên tỏ rõ lập trường quan điểm chính trị dân chủ của Người.
Đến năm 1920, khi Người từ lập trường dân tộc và yêu nước tiến đến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản (CNCS), tán thành đường lối của Quốc tế III, gia nhập Đảng Cộng sản (ĐCS) Pháp đồng thời là một trong những người sáng lập ĐCS Pháp thì đây là bước ngoặt quan trọng để hình thành học thuyết giải phóng của Người. Về cơ bản, những năm 1920 - 1924, những luận điểm cơ bản của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã hình thành. Vừa lao động vừa tham gia hoạt động chính trị trong phong trào công nhân Pháp và ở châu Âu, Người đã giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin và quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản.
Tham gia vào Hội Liên hiệp những người yêu nước ở thuộc địa, sáng lập báo “Người cùng khổ”, tiếp thu tư tưởng Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc, đi tiên phong trong hoạt động của Ban thuộc địa của ĐCS Pháp, đấu tranh cho sự kết hợp giữa giải phóng giai cấp với giải phóng các dân tộc bị áp bức, làm cho những người cộng sản lúc bấy giờ quan tâm tới phong trào cách mạng giải phóng dân tộc... đó là những đóng góp nổi bật của Nguyễn Ái Quốc.
“Bản án chế độ thực dân” là tác phẩm lý luận quan trọng của Người viết năm 1925 trên lập trường mác xít.
Trong học thuyết giải phóng của Hồ Chí Minh nổi bật những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, vạch trần bản chất của CNTD, lên án tội ác của nó không chỉ đối với vô sản và lao động ở chính quốc mà còn ở thuộc địa. Người ví nó như con đỉa hai vòi, một vòi hút máu ở chính quốc, một vòi hút máu ở các thuộc địa. Nó là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và lao động ở tất cả các nước. Kết luận quan trọng được rút ra là muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức phải đồng thời chặt đứt cả hai cái vòi của con đỉa thực dân ấy. Điều đó bao hàm nhiều ý nghĩa: Phải làm cách mạng triệt để, làm cách mạng đến nơi, theo gương cách mạng Nga và đi theo chủ nghĩa Lênin, phải phối hợp các phong trào cách mạng của tất cả các nước, kết hợp dân tộc với quốc tế, hình thành chủ nghĩa quốc tế.
Thứ hai, trong sự phối hợp các phong trào cách mạng cần phải chủ động và giúp đỡ lẫn nhau như một con chim hai cánh. Cách mạng ở thuộc địa không thụ động chờ đợi cách mạng ở chính quốc mà có thể đi trước và thắng lợi trước.
Thứ ba, trên thế giới này, xét ra chỉ có hai giống người. Giống người ác, đó là lũ ác quỷ thực dân và giống người tốt đó là tất cả mọi người đang bị áp bức phải giúp đỡ lẫn nhau, hợp thành sức mạnh, đem sức ta mà giải phóng cho ta. Chỉ có một tình hữu ái chân chính duy nhất, đó là tình hữu ái của giai cấp vô sản mà thôi.
Thứ tư, chỉ có con đường cách mạng vô sản, chỉ có CNXH và CNCS mới giải phóng được giai cấp vô sản, giải phóng cho tất cả mọi người trên trái đất.
Trong các văn phẩm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đóng vai trò quan trọng giác ngộ cách mạng cho Nguyễn Ái Quốc để hình thành học thuyết lý luận giải phóng của Người phải đặc biệt kể đến “Tuyên ngôn của ĐCS” của Mác và Ăngghen và “Luận cương về quyền tự quyết của các dân tộc” của Lênin cũng như sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới do cuộc cách mạng đó sinh thành.
Thứ năm, giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và quốc tế. Đây là vấn đề mấu chốt nhất, là điểm cốt yếu trong lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh.
Người đã phát hiện ra sự khác biệt về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa (TBCN) và phương Đông cũng như ở Đông Dương và Việt Nam - nơi đang là thuộc địa dưới ách thống trị của CNTD. Từ nghiên cứu về kết cấu kinh tế và kết cấu xã hội, Người đã thấy rõ, sự phát triển của CNTB ở phương Tây đã dẫn đến phân hóa giai cấp rất sâu sắc giữa tư sản và vô sản. Giải phóng giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giai cấp trong lòng các nước TBCN ở châu Âu theo con đường cách mạng vô sản là một tất yếu để tiến tới chủ nghĩa cộng sản (CNCS).
Trong khi đó, ở phương Đông lạc hậu và trì trệ, CNTB còn chưa phát triển, mâu thuẫn và phân hóa giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây. Ở xứ Đông Dương và Việt Nam, mâu thuẫn cơ bản là giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc thực dân xâm lược.
Giải phóng dân tộc để giành lại độc lập và chủ quyền là đòi hỏi bức xúc và gay gắt nhất. Tất cả dân tộc Việt Nam bao gồm các giai cấp, tầng lớp, các giai tầng xã hội đều có chung kẻ thù xâm lược, đều có lòng yêu nước, cùng có chung nguyện vọng là giải phóng dân tộc làm cho nước Việt Nam độc lập, do đó đều có thể đoàn kết và đại đoàn kết để cứu nước, cứu giống nòi ra khỏi họa xâm lược của ngoại bang.
Vấn đề đặt ra là giải phóng dân tộc trên lập trường ý thức hệ nào? Dựa vào lực lượng nào để cứu nước nhà? Giải phóng dân tộc để đưa dân tộc đi tới đâu, phát triển theo chiều hướng nào?
Ý thức hệ phong kiến đã tỏ ra lỗi thời, lạc hậu, đã bất lực trước con đường giải phóng. Giai cấp phong kiến đã quá thời về mặt lịch sử, triều đại phong kiến cuối cùng đã ươn hèn, bạc nhược, đầu hàng và bán nước cho thực dân Pháp.
Ý thức hệ tư sản và tiểu tư sản cũng không đóng được vai trò thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam khi CNTB phương Tây đã xâm nhập vào. Các phong trào khởi nghĩa của nông dân cũng lần lượt thất bại và bản thân ý thức hệ nông dân cũng chỉ đưa lại chế độ phong kiến mà thôi.
Các chí sỹ yêu nước, nhiệt huyết và dũng khí có thừa nhưng bế tắc và phá sản về đường lối cứu nước. Các ngả rẽ Đông Du của Phan Bội Châu, dựa vào Nhật để chống Pháp hay đường lối cải lương của Phan Chu Trinh, dựa vào Pháp để chống Pháp, hy vọng canh tân, khai dân trí, chấn dân khí để cứu nước rốt cuộc cũng đi vào ngõ cụt. Hành động phiêu lưu “không thành công thì cũng thành nhân” như một sự phản kháng thực tại với lập trường tiểu tư sản của Nguyễn Thái Học rồi cũng thất bại.
Duy nhất chỉ có con đường cách mạng trên lập trường giai cấp công nhân mới cứu được dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc mang sức mạnh của một động lực tiến bộ và phát triển nếu nó đặt trên cơ sở của chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra điều đó và tìm đúng câu trả lời mà lịch sử đòi hỏi. Vậy là Người chủ trương giải phóng dân tộc nhưng vượt qua ý thức hệ phong kiến suy tàn, vượt qua ý thức hệ nông dân, tiểu tư sản và tư sản để đứng vững trên lập trường ý thức hệ giai cấp công nhân là ý thức hệ tiên tiến của thời đại. Sự lựa chọn này đã đặt con đường phát triển của Việt Nam vào quỹ đạo của thời đại mới - thời đại quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là ĐCS. Bởi thế, làm cách mạng trước hết phải có Đảng và Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, đó là chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa Mác-Lênin, phải noi theo con đường cách mạng đến nơi là cách mạng Tháng Mười Nga, 1917 do Lênin và ĐCS lãnh đạo.
Theo con đường này, công nông là gốc của cách mạng và đoàn kết tất cả các lực lượng trong nước để đánh đổ đế quốc phong kiến, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, qua đó nhân dân làm chủ xã hội. Phối hợp với quốc tế, đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, thực hiện cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, giành độc lập và dân chủ mà mấu chốt là vấn đề ruộng đất cho nông dân, sau đó tiến lên cách mạng XHCN, bỏ qua chế độ TBCN.
Chính cương sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và sáng lập ra ĐCS từ đầu năm 1930 đã nhìn thấu suốt con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trước đó, “Đường cách mệnh” (1927) đã là sự chuẩn bị trực tiếp về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.
Giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, đặt giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, đó là một trong những sáng tạo lý luận lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc, đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng lý luận kéo dài ở Việt Nam, đã mở ra đột phá lý luận cho sự phát triển của Việt Nam ở thế kỷ XX.
Hai phát kiến lý luận xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin là ở chỗ, phát kiến ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới - đó là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và phát kiến ra quy luật ra đời của ĐCS Việt Nam, đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa cái phổ biến với cái đặc thù, là quy luật thành lập ĐCS trong một nước nông nghiệp lạc hậu, một xã hội thuộc địa với chế độ thực dân nửa phong kiến.
Theo quy luật này của ĐCS Việt Nam, giai cấp công nhân lấy sức mạnh của mình trong lòng dân tộc, giai cấp gắn liền với dân tộc và ĐCS Việt Nam, từ trong bản chất của nó, ngay từ đầu đã gắn bó máu thịt với nhân dân và dân tộc, đã là đội tiên phong của dân tộc và nhân dân, đã tồn tại và chiến đấu chỉ vì lợi ích của nhân dân, vì tương lai triển vọng của dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam làm tròn trọng trách lịch sử của mình là ở chỗ giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc trên con đường XHCN, để đem lại quyền dân chủ và làm chủ, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Thông qua đó, giai cấp công nhân tự giải phóng mình, góp phần vào giải phóng xã hội vì nhân loại và vì con người.
Bởi thế, những nội dung cấu thành học thuyết giải phóng của Hồ Chí Minh lấy giải phóng dân tộc làm tiêu điểm, lấy lập trường, ý thức hệ giai cấp công nhân làm nguyên tắc, lấy việc thành lập Đảng cách mạng và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng làm điều kiện tiên quyết, lấy công - nông làm lực lượng nòng cốt, là gốc của cách mạng, lấy đoàn kết làm chiến lược, thành đường lối chiến lược, lấy độc lập dân tộc và CNXH là lý tưởng và mục tiêu, lấy quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường, phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH là mối quan hệ qua lại, thống nhất hữu cơ, tác động biện chứng lẫn nhau. Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện để đi tới CNXH. CNXH là đảm bảo đầy đủ, chắc chắn, bền vững nhất của độc lập dân tộc.
Điểm mấu chốt cần được khẳng định và nhấn mạnh trong
học thuyết giải phóng Hồ Chí Minh là ở chỗ, đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu
nhưng không bao giờ xem nhẹ giải phóng giai cấp hoặc đấu tranh giai cấp, trái
lại, Người đã tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp
công nhân, kiên định con đường cách mạng không ngừng, gắn liền độc lập dân tộc
với CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Người đã từ quan điểm thực tiễn và phát triển mà
phát triển lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó trên nền tảng lý
luận giải phóng mà tìm ra con đường, phương thức phát triển của cách mạng Việt
Nam, quy luật về Đảng cách mạng, chiến lược đại đoàn kết và mô hình chế độ dân
chủ cộng hòa, đặt nền móng xây dựng chính thể XHCN ở Việt Nam để thực hiện mục
tiêu giải phóng. Trong tiến trình và trong chỉnh thể, học thuyết giải phóng Hồ
Chí Minh là học thuyết độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, là đồng thời tiến hành
bốn cuộc giải phóng lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và giải phóng con người.
Để thực hiện được học thuyết này, Người đã dầy công xây dựng lực lượng, thực
hành đoàn kết, sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội và Nhà nước, sáng tạo phương
pháp và hình thức đấu tranh, có quan niệm mới về cách mạng và bạo lực cách mạng,
vận dụng nhuần nhuyễn khoa học và nghệ thuật cách mạng với phép biện chứng của
Thời - Thế và Lực, chú trọng Thiên thời, Địa lợi nhưng vẫn lấy Nhân hòa làm gốc,
lấy Dân làm chủ thể và chủ đạo. Học thuyết giải phóng của Hồ Chí Minh là học
thuyết về Dân tộc và học thuyết vì dân. Bằng cách đó, Người đã vượt qua những
hạn chế giáo điều, thể hiện bản lĩnh sáng tạo, đề cao dân tộc nhưng không rơi
vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, biệt phái, đặt dân tộc hài hòa với quốc
tế, kiên định lập trường quan điểm giai cấp công nhân nhưng không rơi vào tả
khuynh. Người thực hành mẫu mực nguyên tắc phương pháp luận mác xít “Phân tích
cụ thể một tình hình cụ thể”, “Chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo”.
Chỉ riêng vấn đề giải phóng dân tộc vì mục tiêu trực tiếp độc lập dân tộc, trong suốt quá trình xây dựng và thực hành học thuyết, Hồ Chí Minh đã để lại bài học quý giá về sự kiên định, theo đuổi đến cùng mục tiêu, giữ vững nguyên tắc và mềm dẻo, linh hoạt, thiên biến vạn hóa về phương pháp, sách lược, bước đi và biện pháp.
Không thể không nhắc tới những sự kiện, những tình huống, những bước ngoặt đầy thử thách cam go của lịch sử có liên quan tới cuộc đời, tư tưởng, học thuyết và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
- Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước suốt 30 năm (1911 -1941), Người đã từ quan sát, khảo nghiệm trong thực tế để quyết tâm đánh đổ CNTD xâm lược, mưu cầu độc lập tự do thực chất chứ không phải những lời tuyên bố giả hiệu hay trò lừa bịp. Người giác ngộ để rồi tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là khi tiếp xúc với Luận cương của Lênin đã thấy ở đó cái cẩm nang, là con đường cứu sống cho dân tộc ta. Giữ vững chủ nghĩa, thực hành đạo làm người của người cách mạng, trước sau cũng chỉ vì Độc lập cho Tổ quốc, Tự do và Hạnh phúc cho dân tộc và đồng bào. Chủ trương giải phóng dân tộc là một tư tưởng lớn, vượt trước thời đại, dũng cảm và bản lĩnh để vượt qua mọi rào cản giáo điều.
- Trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc chuyển hướng chiến lược, từ 1941, Người đã cùng với Đảng xác định đúng phương hướng, đường lối, chính sách cho công cuộc giải phóng, nắm thời, tạo thế, gây dựng lực lượng để hành động mau lẹ, kịp thời với nhãn quan chiến lược và phương pháp sáng tạo thiên tài. Nhờ đó, 15 năm non trẻ của lịch sử Đảng đã làm nên thắng lợi 15 ngày của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra chế độ dân chủ cộng hòa với Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới.
- Bên thềm của cuộc cách mạng vĩ đại ấy, Người nêu cao ý chí và dũng khí trong một tình huống gian nan “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập”. Có giải phóng dân tộc thì nhân dân và cả giai cấp mới thoát khỏi kiếp ngựa trâu.
- Tuyên ngôn Độc lập 02/9/1945 còn là lời cáo chung chế độ thực dân, là thông điệp của toàn dân tộc đi vào thời kỳ phát triển mới, mở ra trang sử mới, quyết giữ gìn mãi mãi nền độc lập vừa giành được.
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu làm nô lệ.
- Kháng chiến kiến quốc toàn dân, toàn diện, trường kỳ, đánh bại dã tâm xâm lược thực dân, gây dựng chế độ mới, vì nền độc lập của Tổ quốc, vì quyền sống trong tự do, dân chủ, làm chủ vận mệnh của dân tộc mình, của nhân dân mình. Thi đua yêu nước là để thực hành cho được ba chủ nghĩa: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
- Thắng lợi vĩ đại đánh thắng CNTD cũ ở Điện Biên Phủ mới là thắng lợi bước đầu. Còn phải quyết tâm giành độc lập cho cả nước, thống nhất đất nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hễ còn một tên xâm lược cũng phải quét sạch nó đi, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
- Chiến tranh ác liệt có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Đồng bào ta còn phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Đánh bại hai đế quốc to (CNTD cũ và CNTD mới) nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
- Toàn Đảng toàn dân đoàn kết một lòng, xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường (1951), giàu mạnh (1965 - 1969 - Di chúc).
Như vậy, học thuyết Giải phóng của Hồ Chí Minh bao quát cả một chặng đường lịch sử lâu dài, tranh đấu cho nền Độc lập tự do, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng kiến thiết chế độ mới, dựng nước đi liền với giữ nước theo bài học của ông cha để lại, xây dựng phải đi liền với bảo vệ, đổi mới không ngừng để phát triển, tiến bộ, văn minh và hiện đại.
Học thuyết Giải phóng của Người vừa kế tục những truyền thống và tinh hoa của dân tộc trong lịch sử hàng ngàn năm văn hiến dựng nước và giữ nước, vừa vươn tới tầm cao tư tưởng của thời đại, nắm bắt xu thế của lịch sử và đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc, đất nước, xã hội và con người Việt Nam. Học thuyết đó đặt tiền đề và cơ sở của phát triển, dẫn tới chủ thuyết phát triển của Hồ Chí Minh như một sự kế tục hợp lô gích những tư tưởng sáng tạo và hoạt động thực tiễn phong phú của Người. Từ đây, truyền thống lịch sử dân tộc được nâng cao và phát huy trong truyền thống cách mạng của Đảng, được tỏa sáng và thăng hoa bởi tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Học thuyết giải phóng do Hồ Chí Minh xây dựng và Người đã cùng với Đảng từng bước phát triển, hoàn thiện, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện, làm nên những biến đổi và phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của độc lập dân tộc và CNXH, của Đổi mới, Hội nhập và Phát triển.
GS. Hoàng Chí Bảo
[TT: PLN]