Tri Tôn quan tâm chăm sóc đồng bào dân tộc Khmer

08:36 11/04/2013 Lượt xem: 1446 In bài viết

Toàn huyện có 97% dân số có tín ngưỡng với 116 cơ sở thờ tự của các tôn giáo chính (Phật giáo, Thiên chúa, Tin lành, Cao đài, Tứ Ân Hiếu Nghĩa...), trong đó có 36 chùa Phật giáo Nam Tông Khmer, trên địa bàn huyện có 555 vị sư sãi và 159 thành viên ban quản trị chùa.

Tri Tôn là Huyện Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong đấu tranh giải phóng dân tộc, các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer… có truyền thống đoàn kết gắn bó trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Toàn huyện có 479 gia đình thương binh, 36 mẹ Việt Nam anh hùng, 297 gia đình liệt sĩ, 1.817 gia đình có công với cách mạng, trong đó có nhiều gia đình có công là người Khmer.

Người Khmer ở Tri Tôn có mối quan hệ thân tộc gắn bó với người Khmer ở Campuchia, trong đó có người thân của họ hiện đã và đang tham chính ở Campuchia .

Trong những năm qua được sự quan tâm của TW, tỉnh cũng sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân trong huyện, đảng bộ tập trung lãnh đạo, khai thác lợi thế để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Huyện đã chỉ đạo các nghành đầu tư nạo vét kênh mương, xây dựng hệ thống thuỷ lợi vừa và nhỏ phục vụ sản xuất, thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến công; mở 506 lớp tập huấn kĩ thuật và dạy nghề cho 15.759 lao động nghèo, trong đó dân tộc Khmer được đào tạo nghề là 2.823 lao động, giải quyết việc làm cho 1.520 lao động và 65 lao động xuất khẩu ở các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia… hướng dẫn ứng dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi; xây dựng 35 tiểu vùng sản xuất vụ Thu Đông (diện tích 13.000 ha); Ngân hàng Chính sách đã giải ngân cho 19.192 lượt hộ nghèo, hộ đặc biệt khó khăn để phát triển sản xuất với số tiền hơn 167 tỉ đồng. Ở các xã vùng miền núi đã xây 5 trạm bơm điện phục vụ sản xuất, góp phần tăng vòng quay của đất từ 1,82 lên 2,12 lần. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (năm 2007 11,80% lên 14,31 % năm 2011).

Đảng bộ tập trung chỉ đạo đẩy mạnh triển khai xây dựng 16 mô hình sản xuất có hiệu quả: áp dụng chương trình 3 giảm, 3 tăng; 1 phải 5 giảm; 2 vụ lúa, 1 vụ màu; 2 vụ màu 1 vụ lúa; trồng mè; đậu phộng trên đất ven chân núi, nuôi lươn, trồng cỏ chăn nuôi bò (thực hiện Đề án 25 đã cấp 2.716 con bò cho 1.358 hộ, 588 con heo và 3.528 bao thức ăn cho 147 hộ; 12 máy phun thuốc cho 12 hộ), làm đường thốt nốt, gốm sứ… mang lại hiệu quả kinh tế cao, được đồng bào dân tộc Khmer hưởng ứng; từng bước làm thay đổi tập quán sản xuất qua đó một số hộ Khmer đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu.

Hiện tại huyện có 5 công ty, xí nghiệp thu hút 3.000 lao động thường xuyên; kinh tế hộ khá phát triển, toàn huyện có 1.508 hộ sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm thường xuyên 2.070 lao động.

Sản xuất công nghiệp đã thu hút được các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư trên địa bàn.

Nhìn chung, khu vực công nghiệp -xây dựng của huyện Tri Tôn đang từng bước phát triển góp phần giải quyết được nhiều lao động tại chỗ cho người dân. Huyện đã tạo mọi điều kiện phát triển các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, nhất là các ngành nghề truyền thống gắn với du lịch (đan đệm bàng, làm nồi đất, se nhang, sản xuất đường thốt lốt,…); khuyến khích đổi mới quy trình, thiết bị, công nghệ…; có chính sách phát triển ngành cơ khí sửa chữa phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và vận tải. Tuy nhiên việc phát triển còn mang tính cá thể, hộ gia đình.

Hệ thống giao thông các xã vùng đồng bào Khmer ngày càng được đầu tư nâng cấp hoàn thiện phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xe 4 bánh đã đến 100% trung tâm các xã; Chương trình 135, cùng các chương trình có cùng mục tiêu, cùng đối tượng đã được lồng ghép để tăng hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống giao thông cho các xã Cô Tô, Ô Lâm, Núi Tô, An Tức (giai đoạn 2005-2010 đã đầu tư nâng cấp 8.182 m đường, 47 m cầu cống, kinh phí 3.084,6 tỷ đồng). Thực hiện phong trào “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều địa phương đã huy động nhân dân tham gia hiến đất, đóng góp bằng tiền, vật liệu, ngày công để mở rộng nâng cấp đường nông thôn phum sóc, phục vụ đời sống, phát triển kinh tế với tổng giá trị là 2,34 tỷ đồng. Các xã xây dựng xong kế hoạch cụ thể thực hiện Tiêu chí 2 trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

Đồng thời huyện còn triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Thực hiện Quyết định số 1912/QĐ-UBND, ngày 24/8/2008 của UBND tỉnh An Giang “Đề án phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp cho người dân tộc Khmer và Chăm giai đoạn 2008-2010 với tổng số tiền đầu tư 1,968.8 tỷ đồng và Chính sách giúp đồng bào dân tộc Khmer phát triển sản xuất ổn định đời sống, bằng hình thức hỗ trợ trực tiếp theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/08/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

Đảng bộ quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như: đường nông thôn; các công trình thủy lợi; trạm bơm điện; hệ thống cung cấp nước sạch; điện sinh hoạt; xây dựng kiên cố trường lớp học; cải tạo nâng cấp trạm y tế, hệ thống truyền thanh, bưu điện văn hoá, nhà văn hoá, trang bị các phương tiện sinh hoạt cộng đồng; nhà ở, cụm tuyến dân cư...các công trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới… đã mang lại hiệu quả thiết thực, bộ mặt nông thôn ngày càng thay đổi và khởi sắc, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt của người dân.

Hệ thống giáo dục đào tạo được mở rộng, mạng lưới trường lớp phát triển đều khắp ở các xã, thị trấn. Chất lượng đào tạo được nâng lên. Đội ngũ giáo viên là người dân tộc Khmer chiếm tỷ lệ 18,55%, huyện đã mở lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho giáo viên công tác vùng dân tộc được 11 lớp với 355 giáo viên tham dự và 04 lớp dạy chữ Khmer cho 100 cán bộ, đảng viên. Chọn và cử tuyển 141 học sinh đi học các Trường Đại học trong đó (dân tộc Khmer có 100 học sinh).

Bên cạnh đó công tác giáo dục ngoài nhà trường tiếp tục được duy trì và phát triển như hoạt động của Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Trung cấp nghề Dân tộc; Trung tâm học tập cộng đồng và dạy chữ Khmer trong các chùa Khmer.

Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có nhiều tiến bộ, đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho người dân và làm tốt công tác vệ sinh phòng chống dịch, thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, đưa tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 19,9 %, tỷ lệ tăng dân số còn 1,31 %. Đặc biệt huyện đã thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả phòng khám nhân đạo điều trị bình quân mỗi tháng từ 200-500 bệnh nhân nghèo miễn phí theo phương châm kết hợp Đông Tây y trong khám chữa bệnh cho nhân dân.

Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao thông tin cổ động, được tổ chức thường xuyên, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia, nổi bật là các lễ hội truyền thống lịch sử của huyện, các lễ hội Chôl Chhăm Thmây gắn với ngày hội văn hoá thể thao; lễ hội Donta gắn với đua bò bảy núi và các lễ hội khác tạo không khí phấn khởi trong đồng bào dân tộc Khmer.

Toàn huyện có 138 điểm di tích lịch sử, trong đó có 25/36 chùa Khmer. Việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc Khmer ở Tri Tôn có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Đảng bộ tổ chức hội thảo giữ gìn sự trong sáng của phật giáo Nam Tông Khmer, toạ đàm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Khmer Tri Tôn và công tác vận động quần chúng đóng góp để sửa chữa trùng tu các chùa, phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, xây dựng điểm sáng phum sóc, xây dựng chùa Khmer văn hoá, được các vị chức sắc tôn giáo và các giáo dân đồng tình hưởng ứng.

Nhìn chung trong những năm qua, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới vùng nông thôn, dân tộc luôn giữ vững ổn định; quan hệ đối ngoại được thực hiện tốt trên tinh thần “hoà bình, hữu nghị, thân thiện và phát triển”. Công tác bồi dưỡng, giáo dục kiến thức quốc phòng an ninh cho cán bộ cơ sở, lực lượng học sinh và chức sắc các Tôn giáo, đã góp phần nâng cao ý thức cảnh giác, ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động chống phá gây chia rẽ đoàn kết dân tộc tôn giáo của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thông qua các tổ chức Mặt trận, đoàn thể phát động nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất, kinh doanh, hoạt động nhân đạo, từ thiện xã hội. Triển khai thực hiện tốt cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với quy chế dân chủ cơ sở và thực hiện “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã tạo được sự đồng thuận trong nhân dân, lòng tin của quần chúng nhân nhân đối với Đảng và Nhà nước ngày thêm củng cố.

Trần Văn Trạt